PHẬT GIÁO & XÃ HỘI
MÂU THUẪN TRONG MỖI CON NGƯỜI
Thích Đạt Ma Phổ Giác
* * *
Từ trước đến nay, chúng ta tu theo đạo Phật là để được giác ngộ, giải thoát, vượt lên sự tầm thường của con người, để trở thành các bậc hiền Thánh. Chúng ta không ngờ rằng trong đạo Phật đã có sẵn hệ thống đạo làm người rất lớn. Và chính nhờ đạo làm người này mới giúp chúng ta có thể làm Thánh được.
Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta đều có một vai trò chức năng việc làm khác nhau. Có người cao sang quyền quý, có người trung lưu nhàn nhã, có người nghèo khổ khốn cùng. Nhưng dù ở vị trí nào, số phận nào, chúng ta cũng đều là người. Ngay khi đã là một tu sĩ xuất gia đi tìm sự giác ngộ, giải thoát chúng ta vẫn là một con người. Cho nên chúng ta phải sống có nhân cách đạo đức và phải biết thực hiện đạo làm người một cách trọn vẹn.
Ai sống trong cuộc đời này, đều cũng mong muốn và ước mơ mình có một tương lai tươi sáng tốt đẹp, để phục vụ cho gia đình và xã hội. Tuy có suy nghĩ và ước mơ như thế nhưng mấy ai được tròn tâm nguyện của chính mình. Bởi vì đường đời nhiều nỗi chông gai, cạm bẫy đó là việc thực tế trong cuộc sống. Bây giờ chúng ta thử nhìn lại chính mình coi những nguyên nhân đó từ đâu ra. Ai cũng nghĩ rằng cuộc sống này sở dĩ có sự mâu thuẫn là do con người tạo ra sự đối kháng lẫn nhau, chớ không nghĩ cái mâu thuẫn đó ở ngay thân mình do tâm ý thức của chúng ta phân biệt mà ra.
Chắc ai cũng hiểu rằng, từ khi mới lọt lòng ra cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, trong đời thường hưởng được mấy lần vui. Cơn vui vừa thoáng qua, cơn buồn lại kéo đến. Đã đành sanh, già, bệnh, chết là bốn đại hoạ không ai tránh khỏi, mà nghèo khó thiếu thốn khó khăn, ân ái yêu thương phải xa lìa rồi oán thù gặp gỡ, hoàn cảnh lôi kéo cũng đủ làm chúng ta đau khổ vô cùng.
Nước mắt chúng ta nhiều hơn bốn biển trên thế gian này mà sẽ còn nhiều hơn nữa, nếu lòng tham lam, ích kỷ của ta không được chuyển hoá. Chúng ta thấy rõ ràng đó là biển nước mắt đau thương bởi sự si mê cuồng vọng của loài người gây ra. Thế cho nên, muốn cho nước mắt ngừng rơi trên đôi má ta, chỉ có một con đường duy nhất là mọi người biết thương yêu nhau bằng trái tim hiểu biết với tấm lòng vô ngã, vị tha. Từ xưa nay các bậc thánh nhân, các vị đại Bồ tát và tất cả chư Phật đều sống bằng tấm lòng từ bi rộng lớn, nhờ biết cách tu tập chuyển hoá tự thân dứt ác làm lành.
Đạo Phật chú trọng đến mục đích giác ngộ, giải thoát tự lợi rồi lợi tha để san sẻ và nâng đỡ người khác. Chúng ta có thể nhiều kiếp học rộng nghe nhiều nhớ hết tất cả pháp môn của chư Phật chỉ dạy, nhưng chẳng bằng chuyên tu hạnh giải thoát cho mình và người. Nếu chúng ta chỉ học suông, mà không tu thì khác nào như người thuộc lòng tấm bản đồ rồi ngồi đó ngắm xem hoài mà không chịu đi.
Có người nghĩ rằng tu là một việc làm quá khó, phải xa gia đình, xã hội để ép mình trong một khuôn khổ nhất định nào đó, che mắt bịt tai trước mọi hoàn cảnh, vứt bỏ cuộc sống xã hội, rồi ỷ lại thần quyền để cầu mong tương lai trường sanh, bất tử. Tu như vậy làm sao có ích lợi cho mình và người được? Hạng người có hiểu biết chân chính lúc nào cũng tin sâu nhân quả, làm lành tránh dữ biết điều phục từ thân miệng ý thì thân tâm an lạc, hạnh phúc.
Vậy tu là gì? Chúng ta định nghĩa một cách tóm tắt thì tu có nghĩa là sửa. Sửa xấu xa lại cho tốt đẹp, tà vạy sửa lại cho chính đáng, độc ác sửa lại cho hiền lành, mê mờ sửa lại cho sáng suốt….. Có nhiều người nói: “Phật tức tâm, tâm tức Phật, tôi chỉ tu cái tâm ấy cũng đủ rồi”. Mới nghe qua tưởng chừng như hợp lý, song xét kỷ thì đó chỉ là câu nói đùa bâng quơ để từ chối việc tu hành của mình mà thôi.
Sư ông chúng tôi thường nói”cuộc đời là mâu thuẫn”, vậy chúng ta phải sống như thế nào để cho cuộc đời được bình yên hạnh phúc, mà không bị những phiền não tham, sân, si làm đau khổ. Mới nghe qua rất lạ nhưng xét kỹ thì đó là sự thật. Bởi vì người Phật tử tại gia cũng như người xuất gia, luôn có những thứ buồn vui, thương ghét, phải quấy, tốt xấu, hơn thua. Chúng ta hay than vãn, tại sao ở gia đình mình không có sự thống nhất với nhau, hoặc ở trong chùa sao không đồng tâm hiệp lực với nhau. Tập thể nào cũng có những chuyện xảy ra như vậy hết.
Lý do gì mà chúng ta luôn có những buồn phiền, bực tức và bất đồng quan điểm với nhau về sự không hoà hợp. Chúng ta hãy nhìn lại coi con người của mình ra sao! Ai cũng ngỡ rằng có sự mâu thuẫn là do người này đối kháng với người kia, chớ không nghĩ cái mâu thuẫn đó ở sẵn ngay nơi mình.
Phật dạy thân người do tứ đại hòa hợp mà hình thành gồm có bốn chất đất, nước, gió, lửa. Như vậy đất với gió không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh, lửa đang cháy bị nước làm giảm sức nóng cho nên cũng không thuận. Vì chúng có sự chống trả với nhau kịch liệt, đất kỵ gió, nước kỵ lửa, người ta thường hay ví như nước với lửa để diễn tả sự đối nghịch nhau. Như vậy, trong thân con người khi nào lạnh quá phải uống thuốc nóng vào cho ấm lại. Khi nào bị nóng quá thì phải uống nước mát vào để cho cơ thể dịu lại. Vì cơ thể nóng là lửa nhiều nước ít, còn lạnh là nước nhiều lửa ít, cho nên chúng ta phải tìm cách điều hòa nó.
Như vậy, trong sự sống của chúng ta phải làm sao điều hòa các yếu tố có tính chất trái ngược nhau. Nếu nặng về bên nào cũng đều sinh bệnh hết. Như cụ thể nhất là người nào trúng gió, thì bị gió xâm nhập, làm cho toàn cơ thể đau nhức, nên gió thổi mạnh thì đất rung rinh, vì vậy mà chúng ta phải cạo gió, cạo một hồi thì cảm thấy trong người bình thường trở lại. Rõ ràng là đất với gió luôn đối chọi nhau, cái nào trội hơn cũng sinh bệnh. Vì vậy chúng ta phải thường xuyên điều hòa, bằng sự ăn uống làm sao cho nó được quân bình với nhau thì cơ thể mới được bình thường mà mạng sống được kéo dài.
Không ai có thể điều hòa cho chúng có thể tồn tại mãi, từ ngày này cho đến năm kia tháng nọ mà chỉ hay lắm là hơn một trăm năm là cùng. Con số người sống trên trăm tuổi quá hiếm hoi, cho nên nó chỉ có một giới hạn nào đó thôi. Bây giờ chúng ta thử đi sâu vào từng phần của nó như chất đất trong người chúng ta.
Ai ăn uống nhiều hoặc không làm chủ bản thân trong việc tiêu thụ thực phẩm nên thân này nó dễ phát sinh bệnh béo phì, nhất là người phụ nữ trong thời hiện đại. Đất nhiều trong người làm cho thân thể béo phì mất câm đối, con người chậm chạp, mệt mỏi đi đứng không được thoải mái. Do ảnh hưởng của hoá chất độc hại trong thức ăn và con người không kiềm chế được trong ăn uống nên sinh ra rất nhiều chứng bệnh lạ kỳ.
Việc khám thử xét nghiệm bệnh theo chu kỳ thời gian và chữa bệnh rất tiêu tốn nhiều tiền, nói chung là người chứa quá nhiều đất thì bất tiện trong mọi công việc. Rồi đến chất gió là sự hoạt động của cơ thể khi gió quá mạnh thì làm cho đất nó rung rinh, cơ thể bị ê ẩm đau nhức rã rời làm cho thân thể nóng sốt lạnh nhức đầu, phải cạo gió và uống thuốc thì mới hết.
Trong con người sống được là nhờ có lửa nóng làm điều hoà thân thể này, nhưng nếu để lửa quá nhiều thì người bức rức, nóng nảy khó chịu làm cho mình phải hoạt động chân tay nặng nề thì cơ thể mới dịu lại, đó là nói về thân nhiệt. Trong cơ thể chúng ta gần 70% là nước để điều hoà nuôi dưỡng con người, nhưng nếu trong người nước quá thạnh có nghĩa là chất âm quá nhiều thì làm cho người lạnh lẽo mệt mỏi muốn ngủ hoài, ít muốn hoạt động vì cơ thể lúc nào cũng luôn mờ mịt, bần thần dã dượi như người thiếu ngủ cả tháng trời.
Tóm lại trong cơ thể bốn chất đất, nước, gió, lửa luôn chống chọi với nhau ta phải điều hoà từ ngày này tháng nọ cho đến năm kia, nếu trong bốn chất đó thứ nào thịnh cũng sinh bệnh, đến khi bị mất đi một chất thì thân thể này tan rã bại hoại. Như vậy phần thân chúng ta do đất, nước, gió, lửa hình thành nên có rất nhiều mâu thuẫn với nhau, đó là phần vật chất, còn phần tinh thần của chúng ta có mâu thuẫn không?
Về phần tinh thần của chúng ta gồm có tâm thiện và tâm ác. Tâm thiện là tâm hay cứu người giúp vật không làm tổn hại cho một ai, từ ý nghĩ lời nói cho đến hành động đều vì lợi ích chung. Tâm ác thì mưu mô xảo trá, quỷ huyệt chuyên làm chuyện xấu xa được phát xuất từ suy nghĩ, lời nói của mình để làm tổn hại cho người khác. Tâm ác khi khởi lên hay sát sinh hại vật, trộm cướp lường gạt của người, làm điều phi pháp, nói dối hại người và hay tiêu thụ các chất độc hại như rượu xì ke ma tuý. Tâm ác được ví như cỏ dại không ai trồng mà chúng vẫn tự mọc, tâm thiện được ví như cỏ kiểng phải chăm sóc, tưới tẳm chu đáo hằng ngày mới xinh đẹp tươi tốt.
Có khi tâm thiện thắng tâm ác, nhưng cũng có khi tâm ác thắng tâm thiện, nhưng phần đông là tâm ác thắng nhiều hơn vì lòng tham lam, ích kỷ và sự chấp ngã của con người. Như chúng ta đáng lẽ không nói lớn tiếng hoặc nạt nộ với ai, không làm cho người khác đau khổ. Vậy mà khi có điều gì làm mình nổi tức lên là ta nói lớn tiếng, dùng những ngôn từ hằn học khó nghe. Nội tâm chúng ta lúc nào cũng có hai thứ thiện ác giằng co với nhau, khiến cho chúng ta bất an hoài.
Xưa có người bán mâu một loại vũ khí thời xưa dùng để đâm và thuẫn là cái khiên để đỡ lại. Ông ta rao bán cây mâu của tôi sắc bén nhọn, đâm vật gì cũng lủng hết. Rồi ông ta lại rao tiếp, khiên của tôi rất chắc, không gì có thể đâm thủng nổi. Có người nghe vậy mới rắn mắc hỏi lại, vậy lấy mâu của ông đâm thuẫn của ông thì sẽ ra sao? Ông ta bị hỏi bí nên đớ lưỡi, không trả lời được đành ngậm miệng đi nơi khác.
Xưa nay tất cả mọi sự vật trên đời đều có 2 mặt âm dương đối nghịch nhau. Trong âm có dương, trong dương có âm. Âm dương mất cân bằng sẽ sinh ra mâu thuẫn, bệnh tật, chiến tranh, hạn hán và lũ lụt. Trong mỗi con người chúng ta ai cũng có tâm thiện ác luôn song hành bên nhau, tâm thiện mạnh thì chế ngự được lòng tham lam và ích kỷ, tâm ác mạnh thì làm tổn hại cho người và vật. Khái niệm mâu thuẫn là để nói về tính 2 mặt của tất cả mọi hiện tượng sự vật trong bầu vũ trụ bao la này: trong âm có dương, trong tốt có xấu.v.v. và .v.v.
Mâu thuẫn theo người A Đông thì cho rằng, các nhân tố âm dương trong một chủ thể luôn vận động và biến đổi luân hồi, âm thịnh thì dương suy, âm suy thì dương thịnh, do nó đối nghịch nhau nên gọi là mâu thuẫn. Mỗi sự vật đều chứa đựng mâu thuẫn bên trong nó bởi vì bản chất của sự vật là động chứ không tĩnh. Khi sự vật còn vận động thì mâu thuẫn sẽ phát sinh.
Như vậy chúng ta nên hiểu rằng mâu thuẫn là đương nhiên tồn tại và là tốt chứ không phải là xấu, vì nó giúp cho muôn loài vật luôn luôn phát triển mở mang. Nếu một gia đình không có mâu thuẫn thì con người sẽ không cần hoàn thiện nữa, dẫn đến không luyện tập, tu dưỡng đạo đức, do đó con người không tiến bộ và đổi mới theo thời gian.
Nếu một xã hội không có mâu thuẫn thì con người sẽ ngừng sinh hoạt, không còn động lực cạnh tranh, để phát triển điều tốt đẹp, khi ấy con người sẽ ù lì ra như cục đất sét nhão. Vì thế có sự sống là có mâu thuẫn, từ con người cho đến muôn loài vật đều có mâu thuẫn hết. Chính vì vậy mà chúng ta phải tìm cách điều hoà mâu thuẫn làm sao cho nó được vuông tròn tốt đẹp.
Bây giờ chúng ta giải thích từ ngữ mâu thuẫn là gì? Mâu là cây giáo dùng để đâm, thuẫn là cái khiên dùng để đỡ lại. Cho nên giáo đâm thì khiên phải đỡ và chống lại. Cũng vậy, thân của chúng ta lúc nào cũng mâu thuẫn bởi bốn chất đất nước gió lửa đối nghịch nhau, trong tâm chúng ta hai anh thiện ác luôn mâu thuẫn đối kháng với nhau. Tự bản thân mình đã có sẵn mầm móng của mâu thuẫn rồi thì trong quan hệ giao tiếp làm ăn sinh sống với mọi người chắc chắn là khó tránh khỏi những sự va chạm vì mỗi người một quan điểm, lập trường khác nhau. Đó là điều chúng ta không bao giờ muốn, nhưng vì mỗi người có một suy nghĩ riêng và tập khí thói quen khác nhau, cho nên khó mà hoà hợp.
Thân mâu thuẫn vì bốn chất đất nước gió lửa luôn đối nghịch nhau, tâm tư con người lại càng mâu thuẫn hơn vì ông luật sư của mình lúc nào cũng bào chữa, biện minh, lý giải, bảo vệ. Cho nên sống với nhau muốn được hòa hợp, thì ta phải có tấm lòng nhân ái, biết bao dung và độ lượng, biết cảm thông và tha thứ bằng trái tim hiểu biết, do đó mới bớt xảy ra xung đột đối kháng nhau. Như vậy trong thể xác lẫn tâm hồn chúng ta luôn có sự mâu thuẫn với nhau vì vậy mà ta phải biết cách điều hoà.
CÁI VUI CỦA NGƯỜI TỈNH THỨC
Muốn làm người biết tu tỉnh trong mọi hoàn cảnh, trước tiên ta phải biết trong mỗi con người chúng ta ai cũng có đôi mắt sáng để nhìn thấy hình ảnh mọi sự vật một cách rõ ràng. Nếu chúng ta để mắt sát vào một tấm gương thì ta sẽ không thấy gì hết, mà đứng quá xa tầm mắt thì cũng không thể thấy. Cho nên, chúng ta cần đứng một khoảng cách vừa phải, không quá xa mà cũng không quá gần mới có thể nhìn thấy rõ ràng mọi hình ảnh, sự vật được phản ảnh đầy đủ trong tấm gương. Trước nhất, ta phải biết lòng từ bi là chất liệu sống để giúp chúng ta biết thương yêu, kính trọng tất cả mọi người một cách bình đẳng, nhất là với những người hay gây khó khăn cho ta, thường chống đối và phản bác ta, không theo ý muốn như ta hằng mong đợi. Trong kinh hay nói người hằng mong sống được thanh tịnh nên lúc nào cũng thể hiện phép lành. Phép lành ở đây là sự rèn luyện, học tập của ta để ngày càng hoàn thiện chính mình. Khi bắt đầu học Phật, chúng ta cần phải luyện tập những kỹ năng sống cho đến khi thuần thục. Việc buông xả các thói quen xấu được vận dụng trong 4 oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi giúp ta có kỹ năng sống có nghệ thuật trong học tập và rèn luyện. Đây là lời dạy chân chính ai cũng có thể lắng nghe và hiểu biết, dù là người mới học đạo hay đã huân tập lâu ngày đều có thể tìm thấy được lợi ích trong khi học tập, rèn luyện chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.
Tất cả chúng ta không phân biệt trình độ căn cơ, ai cũng có thể nghe và lãnh hội để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta học Phật pháp cũng lại như thế, phải biết cách buông xả từ từ cho đến khi nào ta cảm nhận được bình yên, hạnh phúc hoàn toàn; và rõ ràng sự bình yên đó không phải do ai ban tặng mà chính ta đã tự nỗ lực để sống được những giây phút an nhiên, tự tại, không thể có bình yên thật sự do một đấng tối cao nào ban phát cho mình cả. Để có được lòng từ bi rộng lớn, Phật đã chỉ cho ta biết cách tự hoàn thiện chính mình theo từng cấp độ từ thấp đến cao, những đức tính đó phải do mình nỗ lực chứ không phụ thuộc vào người khác. Tự lực là vấn đề then chốt căn bản trong quá trình học tập, rèn luyện để có thể giác ngộ, giải thoát. Khi ta đã được bình yên, hạnh phúc thì mình mới có thể mở lòng thương yêu người khác bình đẳng; ngược lại, nếu ta còn nương nhờ, phụ thuộc vào sự giúp đỡ, hỗ trợ, của người khác thì ta cũng không thể giải thoát được. Chúng ta muốn có một đời sống an vui, hạnh phúc theo người biết tu tỉnh, trước tiên chúng ta phải biết pháp lành, tức là những việc làm thiện ích được thể hiện qua thân-khẩu-ý; như vậy thì thiện nghiệp, thiện tâm của chúng ta sẽ được tôi luyện, huân tập một cách cụ thể và nhờ vậy mới được tăng trưởng. Người có khả năng lúc nào cũng thấy mình có đủ niềm tin về nhân quả, tin chính mình, nên hay làm một cái gì đó để cống hiến cho đời. Khi chúng ta thương người, thương đời thì chúng ta cảm thấy mình có niềm tin nhiều về khả năng của mình. Ở trong niềm tin mạnh mẽ như vậy, trong chính khả năng của mình, chúng ta mới nghĩ đến việc giúp đỡ và sẻ chia cho người khác. Những tâm hồn yếu đuối, bạc nhược không bao giờ biết trang trải lòng từ bi cho một người nào khác.
Người Phật tử chân chính trước tiên cần phải có sự chất phát, nghĩa là có một tâm hồn đôn hậu, thuần phác, giản dị. Chữ “chất phác” ở đây không phải đi đôi với chữ “thật thà” như ta thường nghĩ. Chất phác ở đây là tâm hồn không máy móc. Một người thật thà, chất phát là một người hiền đến độ có thể ngu ngơ, không biết gì. Sự đôn hậu, thuần phác mà Phật dạy ở đây là mình không quá tính toán, so đo một cách máy móc. Chúng ta có thể sống, có thể nhìn thấy cái tốt của người khác mà quên đi cái xấu của họ. Ðó là ta đã biết thông cảm và tha thứ. Một người tánh tình dễ dàng là người biết mở rộng vòng tay để bao dung và độ lượng với người khác. Ðiều này có nghĩa là hễ tâm hồn chúng ta máy móc quá thì tình thương yêu chân thật không thể phát sinh. Chúng ta tính toán nhiều quá thì chúng ta khó mà phát triển lòng từ bi, không thể nhìn đời với một cặp mắt ôn nhu, thuần hòa, chất phác. Do đó, chữ “chất phác” ở đây không có nghĩa là thật thà mà là một tâm hồn rộng lớn. Muốn có được tấm lòng trước tiên cần phải có sự chất phác. Người chất phác không chỉ nói lời chân thật mà cũng không tìm cách lợi dụng người khác hoặc làm việc gì để thủ lợi cá nhân. Chất phác là biểu hiện của người biết sống chân thật, chỉ nói và làm những điều dựa vào sự hiểu biết của mình chứ không phải làm để vừa lòng người khác. Người chất phác là người biết tôn trọng sự thật và nói lời thành thật nên lúc nào tâm cũng được bình yên, hạnh phúc.
Một người nông dân nọ rất chất phát chuyên nghề làm ruộng để nuôi sống bản thân. Mặc dù lam lũ, vất vả với nghề đồng áng nhưng anh vẫn nghèo khó, thiếu thốn, khó khăn. Một hôm trên đường đi làm về, anh vô tình lượm được một sợi dây chuyền bằng vàng, nhưng bản tánh anh vốn chất phát, nhân hậu nên không nỡ lấy sợi dây chuyền mang về. Anh nghĩ người đã làm rớt chắc họ sẽ buồn khổ lắm nên quyết định ở lại chờ trả cho khổ chủ. Đã quá trưa mà chẳng thấy ai đến hỏi, dù đã đói khát nhưng anh vẫn cố nán lại thêm chút nữa. Mãi đến gần xế chiều, một cô gái vừa đi vừa nhìn xuống đất như đang tìm kiếm một vật gì đó. Anh hỏi thăm mới biết cô gái làm rớt sợi dây chuyện do nhà chồng mới hỏi cưới tặng cho. Anh vui vẻ trả lại cho cô và sau đó vẫn tiếp tục nghề làm ruộng của mình. Một thời gian sau, mọi người trong xã đã bầu anh làm lãnh đạo, nhờ vậy anh có cơ hội làm việc tích cực hơn và đời sống bà con cũng có phần khấm khá nhiều hơn trước. Vì sự thật thà, chất phát khi lượm của rơi không sinh lòng tham đắm theo tinh thần người Phật tử chân chính nên anh nông dân chuyển được nghiệp xấu và được làm quan.
Song song với sự chất phát, hiền lành chúng ta còn phải thẳn thắn, nghĩa là trung thực, không quanh co, không tô vẽ, không dua nịnh. Người như thế luôn thể hiện được lòng từ bi rộng lớn, đó là năng lực được huân tập nhiều đời, nhiều kiếp bằng chánh niệm tỉnh giác. Với người thẳn thắn, ta thấy dễ giao tiếp và gần gũi với họ; vì ta biết người như thế chỉ nói những gì theo sự suy nghĩ thật của mình nên ta khỏi phải nghi ngờ hay thắc mắc một điều gì; ngược lại, ta có thể tin tưởng lời nói và việc làm của họ. Những người đáng tin cậy như thế sẽ giúp ta có được mối quan hệ tốt đẹp trong đời sống hằng ngày.
Phẩm chất thứ hai người Phật tử cần có là sự hiền hòa, không kiêu mạn, một đời sống không làm tổn hại ai, không bao giờ tạo cho ai cảm giác bị đe dọa. Ở đây ý nói chúng ta không quá lo sợ, phập phồng, nên chữ “hiền hòa” Phật muốn nói đến một đời sống vô hại, một đời sống của người biết giữ giới, một người có thể mang lại cho người khác một cảm giác an lành, bình an, thoải mái. Không kiêu mạn có nghĩa là không so đo, tính toán, Phật dạy không phải khi chúng ta nghĩ mình hơn người thì đó mới là kiêu mạn. Trong Phật pháp nói rằng, tất cả những trạng thái nào khi ta so sánh giữa mình và người, mình bằng người, hơn người hoặc thua người đều là trạng thái của kiêu mạn. Vì vậy, khi chúng ta so sánh hơn hoặc thua với bất cứ ai thì tâm kiêu mạn phát sinh. Hễ tâm kiêu mạn phát sinh trong lòng người nào thì người đó không bao giờ tiến bộ được. Tại sao? Nếu ta thấy mình hơn người thì ta sẽ không học hỏi và tiến bộ thêm được. Nếu thấy mình thua người thì mình sẽ bị mặc cảm, dày vò, tự ái. Chúng ta lấy hơn-thua làm trọng, lấy thông minh-hiểu biết làm trọng thì như vậy trong sự kiêu mạn đó lòng từ bi không thể nào phát triển. Do đó, “hiền hòa, không kiêu mạn” là những đức tính cần thiết giúp cho mỗi hành giả phát triển tốt đẹp lòng từ bi rộng lớn.
Người Phật tử không được kiêu căng, ngạo nghễ với bất kỳ một ai mà còn thể hiện lòng khiêm tốn đối với mọi người. Thường thì kiêu ngạo luôn đi đôi với thất bại và dễ làm mất lòng người khác. Kiêu ngạo tức là sự chấp ngã của một “cái tôi” về sự thành đạt trong làm ăn hoặc sở hữu về tài sản vật chất hay dáng vẻ bề ngoài. Tất cả cũng chỉ để tôn vinh “cái tôi” ích kỷ này, và lòng kiêu ngạo thể hiện sự cống cao, ngã mạn khi thấy mình hơn người; chính vì vậy ta thường hay khinh khi người khác. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, ngài Pháp Đạt đến lễ Lục Tổ mà đầu không sát đất, thấy thế Tổ liền quở “trong tâm ông ắt chứa vật gì?” Pháp Đạt liền thưa, “con tụng kinh Pháp Hoa hơn 3000 bộ”. Mặc dù Pháp Đạt đến lễ Tổ nhưng nghĩ mình giỏi hơn Tổ nên trong lòng không cung kính mà tỏ ra thái độ coi thường. Sự chấp trước đó cho ta thấy người này không chấp nhận Lục Tổ giỏi hơn mình nên mới tỏ ra thái độ như thế.
Sống đơn giản dễ dàng khiến cho nhiều người yêu mến, thích gần gũi, giao tiếp, nói chuyện vui vẻ với nhau, dễ phát sinh những mối quan hệ tốt đẹp với người. Người sống dễ dàng giống như nồi không thủng đáy, không có vết nứt. Ta có thể chế nước sạch, nước trong vào, nó sẽ giữ nước mãi sạch, trong như thế để mọi người cùng được uống. Người như thế không hay giận dữ, nổi nóng vì những điều nhỏ nhặt mà thường quan tâm đến những gì người khác nói, có khả năng lắng nghe để dễ dàng cảm thông. Biết lắng nghe là hạnh của Bồ tát Quán Thế Âm, là một nghệ thuật sống luôn làm người khác cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng.
Hiền hoà là một đức tính đi ngược lại sự lấn lướt, muốn hơn người. Người biết bao dung và độ lượng luôn thấy được lỗi của mình nhiều hơn là thấy lỗi của người khác. Người tu nhờ thấy được lỗi mình mới biết mình sai và nhờ đó sửa sai nên ngày càng sống tốt hơn mà chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc; ngược lại, người hay thấy lỗi người khác không ích lợi gì mà còn làm tâm mình vẩn đục, khiến ta cảm thấy bực bội và không ưa người khác, từ đó dẫn đến oán giận, thù hằn mà sinh ra tranh cãi, bất đồng quan điểm với nhau.
Người thanh đạm là người sống trong sạch, đạm bạc, luôn an nhiên, tự tại và thanh thản. Do đó, ta cần phải biết bằng lòng với hiện tại, hoàn cảnh môi trường sống mà khéo thể hiện chất liệu từ bi đối với mọi người. Tri túc có nghĩa là biết đủ, người biết đủ là người không có nhiều tham cầu cá nhân quá đáng nên sống an ổn, nhẹ nhàng. Mọi phương tiện từ nhà cửa, vật dụng, đồ đạc cho đến áo quần hay ăn uống ta đều sắp xếp hài hoà. Nhờ thế ta được an vui, hạnh phúc vì ta biết bằng lòng với những gì mình đang có, không cầu kỳ, xa hoa. Chúng ta nên hiểu rằng, dầu ta có mua sắm, sở hữu nhiều thứ vật chất cũng chỉ làm cho tâm ta thêm tham lam, ích kỷ và dính mắc vào chúng. Dĩ nhiên, đời sống chúng ta cũng cần có những thứ cơ bản để đáp ứng nhu cầu hằng ngày cho được thêm thoải mái. Ham muốn nhiều thì khổ đau càng lớn, vì lòng tham con người không biết bao nhiêu mới cho là đủ. Nếu chúng ta là người biết đủ, mình sẽ dễ dàng buông xả được phiền não, khổ đau. Trước khi hiểu được thế nào là lòng từ bi, tình thương yêu chân thật, ta cần phải buông bớt mọi ý niệm tham cầu, chấp trước để “cái tôi” của mình rơi rụng bớt sự dính mắc. Không lăng xăng, rộn ràng thì ta không bị nhấn chìm trong lo lắng, sợ hãi. Nếu chúng ta không biết quay nhìn lại chính mình để thấy sự vọng động lăng xăng làm tâm ta càng thêm mệt mỏi, bồn chồn, lo lắng thì ta không có được phút giây nào yên lắng để suy gẫm, thiền quán nên không có được cơ hội bình yên, hạnh phúc từ nội tâm.
Thanh đạm là một đời sống giản dị, ăn cũng giản dị và ngủ cũng giản dị. Chúng ta sống không làm khổ vợ con, làm khổ gia đình, người thân vì nhu cầu của mình. Người nào mà đời sống cao quá thì không thể phát triển được lòng từ bi thương xót đối với tất cả mọi người. Nhu cầu đời sống càng đơn giản thì việc phát triển lòng từ bi càng tốt đẹp. Hễ ta quá chú trọng đến nhu cầu của mình thì chúng ta phải lo cho mình nhiều hơn, và chúng ta sẽ làm khổ người khác. Chúng ta sẽ thấy những tâm hồn vô cảm đến độ tàn nhẫn vì chỉ nghĩ đến cá nhân của mình mà quên đi lợi ích của người khác. Chúng ta đừng trách họ, vì nếu nhu cầu chúng ta cao quá thì chúng ta cũng trở nên ích kỷ và chắc chắn là lòng từ bi sẽ bị giới hạn rất nhiều.
Không rộn ràng là đời sống không lăng xăng, không vọng động. Ðiều này không có nghĩa chúng ta sống một cuộc sống quá đơn giản, không làm việc gì hết. Người nào bận rộn nhất là chứng tỏ họ có khả năng quản trị được thời gian. Họ sẽ có thì giờ riêng cho họ và họ cũng có thì giờ để làm nhiều việc khác. Nếu họ nhận công việc của ai giao phó thì sẽ hoàn thành một cách tốt đẹp. Ðiều này cho chúng ta thấy, chữ “rộn ràng” ở đây không có nghĩa là đời sống chúng ta không đa đoan. Một người đa đoan mà biết quản trị rất ngăn nắp thời gian của mình thì người đó sẽ có những giây phút rất bình yên. Thế nào là người lăng xăng, rộn ràng? Đó là người hay ôm đồm nhiều việc để chứng tỏ tài năng của mình. Nếu chúng ta vừa làm việc vừa điểm tâm, vừa coi báo vừa nghe điện thoại thì quả thật lăng xăng quá nhiều. Người lăng xăng, rộn ràng làm mất đi chính mình vì họ không còn thời gian để tịnh hoá thân tâm thì làm sao mở rộng lòng từ giúp cho người khác. Không rộn ràng là yếu tố để phát triển lòng từ bi rộng lớn.
Biết cần kiệm cũng là một đức tính tốt thể hiện sự siêng năng, tinh cần, biết tiết kiệm những gì đã được tạo ra bằng sức lao động, công khó nhọc của người khác. Cần kiệm cũng có nghĩa là biết bằng lòng với những cái ít ỏi, không đòi hỏi sự quá đáng cho mình. Nếu cuộc đời ta sống chỉ để đuổi theo những ham muốn vật chất phù phiếm thì thật là uổng công vô ích, phí thời gian của cả một kiếp người. Cần kiệm còn có nghĩa là biết bằng lòng với cái càng ít càng tốt, chứ không phải cố gắng để có được nhiều thứ sở hữu cho riêng mình, nhờ vậy mà người biết cần kiệm lúc nào cũng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
Sự thanh tịnh của các căn là một trong những yếu chỉ Đức Phật đã hướng dẫn cho chúng ta, như mắt ta nhìn thấy cái gì đẹp thì liền thích thú, muốn chiếm đoạt ngay dù chỉ là một vật không đáng giá trị; chẳng hạn khi mình nhìn thấy một đoá hoa đẹp tại một công viên, mình liền muốn hái nó ngay và sẽ khiến khung cảnh công viên mất đi vẻ đẹp thiên nhiên. 6 căn mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý luôn trong sáng là không bị chi phối quá nhiều bởi 6 trần cảnh bên ngoài là sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp. Ðức Phật nói, một người 6 căn luôn trong sáng tức là đối với sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp không hề cảm thấy dính mắc khoái lạc đến độ mất đi sự quân bình trong đời sống. Như vậy, chúng ta là người sống trong cuộc đời này thì mắt phải thấy, tai phải nghe, mũi phải ngửi, lưỡi phải nếm, thân phải xúc chạm và ý phải suy nghĩ; nhưng để giữ 6 căn luôn trong sáng thì ta nên biết tiết độ ở mức vừa phải. Thấy tranh thì cũng thích, thấy cảnh thì cũng thưởng thức nhưng chỉ ở mức vừa phải, đừng quá đam mê. Khi đã lệ thuộc, đã bám víu rồi thì chắc chắn đời sống chúng ta sẽ nghiêng về hướng đó và chúng ta không thể phát triển lòng từ bi. 6 cảnh chi phối chúng ta rất nhiều, đối với chúng nó ta nên giữ tâm quân bình để có thể sống không lệ thuộc. Có như vậy ta mới phát triển được tâm từ bi.
Thực tập chánh niệm, tỉnh giác giúp ta nhận thức được nghe chỉ là nghe, thấy chỉ là thấy. Các căn của chúng ta lúc nào cũng tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta thấy-nghe-ngửi-nếm-xúc chạm, do vậy ta phải luôn dòm chừng giác quan để khi thấy-nghe-ngửi-nếm-xúc chạm ta cũng không sinh tâm luyến ái hay ghét bỏ. Ưa thích thì bị đam mê, dính mắc vào chúng, ghét bỏ thì sinh ra bực tức, hờn mát, cái nào cũng làm cho ta khổ đau hết. Khi ta thấy cái gì thì đó chỉ là cái thấy, nhưng ta lại vẽ thêm bao nhiêu điều về người hay vật ta thấy, do đó sinh ra thương ghét, chấp thủ vào đó; với các giác quan khác cũng thế, kể cả cái biết, cái nghĩ suy. Giờ có lẽ chúng ta cũng đã hiểu và có thể thực hành như thế. Điều đó có thể thực hiện trong mọi hoàn cảnh. Tiếng ho, tiếng chó sủa, tiếng cửa mở, tiếng động bên ngoài, đó là những lúc ta có thể thực hành khi nghe chỉ là nghe. Khi ta nhìn thấy một bông hoa đẹp, mình chỉ tập nhìn mà không nói rằng “tôi sẽ trồng loại hoa đó trong vườn”, hay “cho tôi đi, tôi sẽ đem chưng trong bình hoa”, vì nó là hoa đẹp.
Chúng ta hãy nhìn và nhận biết được các vọng tưởng khởi lên khi tiếp xúc với sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp. Thanh tịnh các căn không có nghĩa là ta hủy bỏ các căn hay đè nén chúng, chỉ có nghĩa là ta nhận biết được các căn bằng trí tuệ, biết được bản chất thật của chúng. Khi chân bị đau, ta liền biết đó là chân đau, cái biết của ta biết được chân đau. Khi chúng ta có thể thanh tịnh các căn, lòng ham muốn của ta cũng giảm bớt dần theo thời gian, giúp ta có được sự an vui, tự tại trong mọi hoàn cảnh. Vì lòng ham muốn khiến tâm ta xáo trộn, không được bình yên. Lòng ham muốn càng mãnh liệt thì sự bất an càng lớn, nhất là đối với những ước muốn không được toại nguyện như ý.
Thật thú vị khi biết trí tuệ là điều kiện để ta phát triển lòng từ bi. Kiến thức nhiều thì sinh lòng tham đắm, có trí tuệ thì chuyển hoá được lòng tham lam, ích kỷ. Trí tuệ được phát triển từ sự học hỏi Phật pháp và sự quán chiếu, nghiệm xét khi tu tập. Người Phật tử chân chính nếu không có trí tuệ thì không thể buông xả được phiền não tham-sân-si, nhờ có trí tuệ soi sáng nên ta mới thấy biết đúng như thật, biết rõ bản chất thật-hư của cuộc đời. Sự thành công, giàu có, cùng quyền cao chức trọng thường làm cho con người chấp ngã, phình trướng, gia tăng “cái tôi” của mình nhiều hơn. Chính vì vậy, người thiếu tu sẽ lầm đường lạc lối, chìm đắm trong cao sang, quyền quý mà làm tổn hại cho nhân loại. Ai chất chứa nhiều kiến thức thì gia tăng “cái tôi” và bám víu vào sự hiểu biết của mình, khi phải tranh luận họ thường đưa cái biết của mình vào, nên rốt cuộc chỉ nghe thấy tiếng của mình mà không học thêm được gì cả.
Ta phải tu tập cho đến không luyến niệm, có nghĩa là luyến ái bám víu vào một đối tượng nào đó. Đức Phật đưa ra một ẩn dụ rất thú vị về nam và nữ. Người nam thì sự tham muốn rất mãnh liệt là biểu hiện của sự mạnh mẽ, quyết đoán. Người nữ thì thiên về tình cảm, thường chờ đợi sự tìm đến của người khác, giống như dây leo muốn nương tựa vào một thân cây. Trái lại, người tự tin có thể tự đứng trên đôi chân, tin chắc vào khả năng, triển vọng của mình.
Nếu chúng ta thấy người khác sân hận thì ta biết rằng họ đang khổ đau lắm, vì thân tâm họ bị đốt cháy bởi sự chấp thân này làm ngã do “cái tôi” ích kỷ của mình. Ta không để lòng sân đó lôi kéo mình chạy theo trong tức tối, bực bội. Nếu ai đó đang buồn rầu, lo âu vì một chuyện không vui nào đó, ta biết họ đang bị một thứ ma mị nào đó làm cho tình cảm bị cảm xúc vui-buồn tác động, ta không ủ rũ, u sầu theo họ vì ta đang trong từng phút giây tỉnh thức, thấy rõ từng nỗi khổ, niềm đau của họ đang bị dày dò, bức bách. Nếu người khác có ý chỉ trích một ai ta cũng không nên hùa theo vì đó là chuyện riêng phải trái của họ, ta chỉ biết lắng nghe để thấy rõ mọi diễn biến đang xảy ra, nhờ vậy ta biết được ai đúng, ai sai, ta không thích nói những chuyện như thế để làm tổn hại thân tâm mình. Thực hành như vậy giúp ta có thể làm chủ được các cảm giác của mình. Khi tiếp duyên xúc cảnh ta chỉ biết ghi nhận, chúng như thế nào thì biết rõ như thế đó, không cần thêm tạp niệm nào. Khi chúng ta không làm chủ được bản thân thì ta sẽ phát sinh lòng sợ hãi, sẽ bị khiếp đảm bởi những chuyện không đâu. Khi không kiềm chế được sự nóng giận, ta sẽ sinh ra tranh cãi, lớn tiếng hơn thua mà đánh mất mình; và khi không làm chủ được các cảm xúc của mình, ta sẽ bị mọi người lôi kéo vào các cuộc chiến như nói xấu kẻ khác, phê bình, chỉ trích họ một cách gay gắt. Để không bị sự tác động của đám đông lôi cuốn, chúng ta cần phải nhận diện được những cảm xúc của riêng mình, nó diễn biến ra sao ta đều biết hết. Ta phải tự biết khi nào chúng tốt đẹp, khi nào chúng xấu ác mà làm chủ bản thân.
Thật ra, sự nóng giận trước tiên sẽ làm thương tổn chính mình, sau đó mới làm ảnh hưởng tới người khác. Khi nóng giận ta có những lời nói không hiền lành, tay chân không đàng hoàng, mặt mày nhăn nhó rất khó coi. Ai dù đẹp cách mấy nhưng khi nóng giận cũng biến thành ma, trông rất dữ tợn. Cái làm cho mình đau khổ quá nhiều, tai hại quá lớn như vậy mà ta vẫn bị nó chi phối, sai sử. Chúng ta biết tu rồi thì phải khôn ngoan, sáng suốt. Những gì tai hại phải chừa bỏ. Như xử sự với người trong nhà, với hàng xóm lúc nào cũng ôn hòa, hiền lành, tử tế, không bao giờ nổi nóng thì mọi người đâu có giận, ghét mình. Khi ta có tai nạn gì mọi người đều giúp đỡ. Như vậy, việc làm hiền lành của mình sẽ khiến ta được người khác mến thương. Chúng ta tu là để buông xả phiền não tham-sân-si, sống lại tính biết sáng suốt của chính mình chớ không phải tu để cầu Phật ban cho cái này, cái kia. Người chỉ lo tu tâm sửa tánh hiền thiện trên nền tảng nhân quả mới thật là người biết tỉnh thức; và cuối cùng, Phật dạy chúng ta phải biết tránh xa những điều các bậc hiền Thánh chê bai, phải phát nguyện gìn giữ 5 điều đạo đức bằng cách không làm các việc ác mà hay làm các việc lành, giữ tâm ý luôn thanh tịnh, sáng suốt.
Bất cứ một ai khi có chút hiểu biết cũng thấy nếu phạm vào bất cứ giới nào cũng đáng bị các bậc hiền Thánh chê trách; như người hay sát sinh hại vật thì gây ra oán giận, thù hằn, nhân quả tiếp nối không có ngày thôi dứt bởi tâm niệm trả thù. Luật pháp chỉ bắt bỏ tù hoặc xử trảm khi ai làm đả thương hoặc giết người, chưa có luật về sự giết hại các loài vật, nhưng có luật bảo vệ các loài thú hoang dã, quý hiếm. Người hay trộm cướp, lường gạt của người khác cũng là một thói quen xấu làm hại mình hại người, từ gia đình cho đến xã hội không ai chấp nhận nên có luật pháp để răn đe, phạt tù tội tuỳ theo mức độ nặng nhẹ. Kẻ tà dâm hay lăng loàn, mất nết cũng bị luật pháp nghiêm cấm. Nói dóc láo, dối gian để lợi dụng, lừa gạt kẻ khác cũng là một hành vi không tốt đánh mất lòng từ bi của chính mình. Uống rượu say sưa và hút chích xì ke, ma tuý làm tàn hại thân tâm, hao tiền tốn của gia đình, người thân và xã hội, làm huỷ hoại nhân cách đạo đức làm người khi vướng vào vòng này, chúng ta là người Phật tử thì càng không nên vi phạm vì đó là những điều đáng chê trách.
Những người hay giận dữ, sân hận cũng rất đáng chê trách vì họ làm đau khổ cho mình và người khác. Lòng sân hận rất nguy hiểm, khi ta để nó bộc phát thì có khi thiêu đốt cả rừng công đức mà bấy lâu nay mình tích luỹ. Sự ham muốn quá đáng do lòng tham lam, ích kỷ tác động tuy không bị chỉ trích bao nhiêu, nhưng nếu trong ta có hai thứ này thì sự phát triển con người tâm linh của mình sẽ bị hạn chế. Người tham lam và sân hận quá sẽ làm giảm bớt sự phát triển lòng từ bi của họ nên cũng khó bề tu tỉnh. Chúng ta là người Phật tử chân chính cũng cần phải biết những gì sẽ đưa đến sự tổn hại cho người và vật cùng những gì sẽ đem lại sự lợi ích tốt đẹp. Tất cả chúng ta đều có lương tâm để tự biết hành động nào đáng chê trách và cần phải tránh xa, nhưng chúng ta thường hay bào chữa “họ làm vậy nên sao tôi không nóng giận cho được”. Chúng ta cứ hay đổ thừa tại-bị-thì-là mà không dám can đảm nhìn nhận sự thật, chỉ cần chúng ta nhận diện được mặt mũi của nó khi ta mới khởi nghĩ, nói năng hay làm một việc gì đó thì sẽ biết rõ nó tốt hay xấu; khi biết như vậy ta sẽ tự biết điều chỉnh lại những gì sai trái do bản thân suy nghĩ và hành động.
Mỗi hành giả phải nên hằng ghi nhớ trong tâm những điều sau đây: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được bình yên, hạnh phúc, an lạc, thái bình. Nếu chúng ta luôn giữ được lời nguyện này trong tâm thì chúng ta sẽ không bao giờ có những suy nghĩ, lời nói phê bình, chỉ trích hay chống báng lại một ai. Chúng ta cần hướng lòng từ bi đến tất cả chúng sinh trong ba cõi sáu đường. Trước mắt, chúng ta chỉ thấy được loài người, các loài vật, còn những loài khác phải có thiên nhãn mới thấy hết chúng đang hiện hữu. Do đó, những gì ta không thể thấy nghe nhưng vẫn có thể hiện hữu trong bầu vũ trụ bao la này. Chúng ta luôn mong mỏi cho tất cả chúng sinh trên thế gian này đều được sống trong bình yên, hạnh phúc. Người Phật tử chân chính không bao giờ có tâm làm tổn hại đến một chúng sinh nào, ta luôn có tấm lòng vì tình người trong cuộc sống. Nếu chúng ta luôn biết suy nghĩ không làm tổn hại đến một ai thì ta sẽ được bình an, hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh và ta luôn nguyện không làm hại bất cứ một chúng sinh nào, không lừa đảo, dối gạt người, cũng chớ bất mãn một điều gì và cũng đừng mong ai đau khổ. Hãy nguyện cho tất cả chúng sinh không sát hại lẫn nhau, đó là lời nguyện chân chính; luôn mong mỏi muôn loài vật sống biết đùm bọc, thương yêu, như người mẹ hiền luôn hy sinh thân mạng để bảo vệ, che chở cho đứa con duy nhất của mình. Chúng ta nên nuôi dưỡng một tình thương như thế đối với tất cả chúng sinh trong bầu vũ trụ bao la này. Đức Phật dạy, nếu chúng ta có thể xếp được xương của tất cả những người làm mẹ, làm cha của mình trong hằng hà sa số kiếp nối tiếp nhau thì xương đó có thể chất cao thành núi đủ để bao quanh trái đất này.
Tâm từ có thể siêu việt đến cõi trời, ngạ quỷ hay cùng khắp trong vũ trụ. Tình thương được trãi rộng đến tất cả chúng sinh từ tâm rộng lớn, tâm không bị nhiễm ô, cấu uế làm vẩn đục. Đó là tâm tỉnh thức của những người biết buông xả mọi phiền muộn, khổ đau. Tâm phàm phu lúc nào cũng bị phiền não bức bách làm giao động, bất an, giống như chú chuột hay ngậm nhắm các thứ đồ đạc linh tinh. Kế đến là tâm không hẹp hòi, oan trái, Không hờn giận, căm thù. Người tu giận không quá một đêm huống chi là phải chất chứa tâm thù hận trong lòng. Dù ở đâu, đi đứng hay ngồi nằm thì ta cũng nên gieo trồng hạt giống lòng từ bi. Khi là cha, là mẹ, ta sẽ không thấy khó khăn trong việc biểu lộ tình cảm với con cái của mình và cũng biết rõ tình cảm của mình đối với chúng ra sao, cũng như ta vẫn nhớ đến cách cư xử của cha mẹ mình lúc nào cũng thương yêu con cái hết lòng. Với những kinh nghiệm cá nhân này làm nền tảng, chúng ta có thể cố gắng để trãi rộng tình thương xa hơn nữa đối với những người chưa quen biết. Ta có một đời sống thánh thiện ngay nơi trong lòng mỗi người, điều này tạo cho ta cảm giác vui vẻ, yên ổn trong mọi hoàn cảnh. Đó là một cách sống thánh thiện ngay trong hiện tại. Sống giữa đời trần tục nhưng ta không đam mê, dính mắc, ái nhiễm tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều. Mọi tham muốn luyến ái đều được chuyển hoá nên tâm ta an ổn, nhẹ nhàng. Muốn được như vậy, trước hết ta phải phát khởi tâm từ bi thương yêu đến tất cả chúng sinh như thể thương yêu đứa con duy nhất của mình. Đó là những điểm trọng yếu mà đức Phật đã hướng dẫn cho ta, những lời dạy rõ ràng làm tâm chúng ta luôn được trong sạch, sáng suốt.
Ngày xưa, có người tìm đến đức Phật để thưa hỏi một vấn đề. Ông ta nói ai cũng nghe pháp của Phật trong nhiều năm nay, tại sao có những Tăng Ni đệ tử Phật nhờ nghe pháp mà hoàn toàn thay đổi tốt đẹp, trở nên hiền hoà, tử tế, từ bi đối với mọi người; nhưng cũng có những người không thay đổi được gì cả, thậm chí có người còn đánh mất lòng thương yêu chân thật trong khi tất cả đều là đệ tử Phật đà. Phật chỉ dạy, “Ta không phải là thần linh, thượng đế hay ban phước giáng hoạ, Ta chỉ là người thầy hướng dẫn, còn làm được hay không là do những người đó”.
Lòng từ bi là tình thương yêu chân thật, là kết quả của sự chuyển hóa tự thân với tấm lòng vô ngã, vị tha trong sự hiểu biết, cảm thông và tha thứ. Lòng bao dung hướng tâm chúng ta rộng mở để tiếp thu những ý kiến, quan điểm và niềm tin trong cuộc sống. Lòng tha thứ giúp ta bỏ đi cảm giác thua thiệt rồi gây ác cảm và thù hận khi người khác xúc phạm mình. Hiểu biết để cảm thông nghĩa là ta đặt bản thân vào hoàn cảnh khó khăn của người khác khi xảy ra xung đột. Những đức tính ấy giúp ta xoa dịu bớt nỗi khổ, niềm đau để mang lại tình thương yêu chân thành. Đạo Phật luôn lấy từ bi song hành với trí tuệ, như đôi cánh của một con chim. Trí tuệ ở đây là nhận ra chân lý của cuộc đời làm cho tâm được tự tại, giải thoát. Việc thực hành tâm từ bi trước hết là thực hành lòng vị tha, sự khoan dung và hiểu biết, cảm thông. Do đó, nó là cái vô cùng quan trọng để đạt đến sự giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. Tâm từ bi cũng là liều thuốc giải độc hữu hiệu cho sự ganh ghét, tật đố, oán giận, thù hằn khởi lên trong tâm mỗi người. Chúng ta biết rằng, tinh thần tiêu cực có thể sản sinh ra những độc tố phá hủy sức khỏe, thân thể lẫn tinh thần. Trong những độc tố khác nhau ấy, tâm hận thù bị dồn nén tạo nên sự hỗn loạn của tâm lý, là nguy cơ đưa đến chứng rối loạn thần kinh và bệnh trầm cảm. Ngược lại, khi tình thương được tăng trưởng thì con tim và tâm hồn mở rộng để chấp nhận mọi tình huống với mọi người và xoa dịu nỗi đau bằng tình thương, đưa bàn tay thân thiện tiếp đón người khác khi họ cần giúp đỡ. Từ bi là năng lượng đủ ấm áp để chữa lành được vết thương, đủ mạnh mẽ để vượt qua trở ngại. Đó là năng lượng tiềm ẩn cần thiết cho nhân loại, là nguồn năng lực quý giá bên trong mà tất cả chúng ta có thể trau dồi để phát triển và làm lợi ích cho mọi người. Để đạt được tỉnh thức trong cuộc sống ta cần phải tập phát triển tâm từ bi. Từ bi là biết chia sẻ niềm vui và nỗi buồn cho nhiều người khác. Phần nhiều các Phật tử cứ nghĩ ai hiền lành là dễ thương, còn kẻ hung dữ thì dễ ghét. Như vậy, tâm mình còn thương người này, ghét bỏ người kia nên đâu thể gọi là lòng từ bi bình đẳng. Ta phải làm sao để người hiền mình vẫn thương mà người dữ mình cũng không ghét. Chúng ta khéo tu như vậy thì lòng từ bi mới ngày càng rộng lớn.
Tại sao người hung dữ ta không ghét? Vì khi họ nổi nóng, nói lớn tiếng nạt nộ một ai đó là họ đã bị khổ đau hành hạ rồi. Họ đã khổ nên ta cần phải thương họ, tìm cách giúp đỡ, an ủi, động viên để làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau của họ. Cho nên, biết con cái mình dở thì cha mẹ phải thương, phải khéo tìm cách này cách khác để khuyến dụ, dạy dỗ, nhắc nhở. Tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp mà giúp con cái hiểu biết để thức tỉnh. Từ bi trong đạo Phật là thương yêu bình đẳng tất cả chứ không phải chỉ thương người tốt mà ghét bỏ người xấu. Nhờ có tâm từ bi rộng lớn mà chúng ta mới có cơ hội tạo được nhiều công đức. Cho nên, từ bi là tập thương người một cách bình đẳng, bất luận người hiền hay dữ ta cũng đều thương xót, giúp đỡ như nhau khi cần thiết. Người lỡ tạo những điều xấu xa, tội lỗi thì ai cũng ghét bỏ nên rất khổ sở vô cùng. Vì vậy, đối với người hung dữ chúng ta tìm cách nhắc nhở, khuyến dụ để họ trở nên hiền lành, như vậy mới thực là người có tâm từ bi không bỏ một ai. Nếu chúng ta cũng ghét bỏ như những người khác thì mình vô tình đẩy họ vào hố sâu tội lỗi không có ngày thôi dứt.
Như vậy, người biết tu tỉnh nhờ biết nhẫn nhục, nhờ có tấm lòng từ bi thương xót nên mới tăng trưởng công đức. Từ bi và nhẫn nhục đâu phải hao tiền tốn của gì mới có mà chỉ trong nội tâm mình phát ra. Cho nên, chúng ta phải làm sao tạo được những công đức và đó mới chính là tài sản lâu dài. Tất cả chúng ta vì thương mình, muốn lợi ích cho nhiều người thì phải cố gắng tu tạo để phát triển tâm từ bi rộng lớn bởi đó là cái của mình, không ai có thể lấy được và không bị 5 nhà lấy mất. Chúng ta tu là phải tỉnh sáng chứ không thể mù tối hoài được. Nên vì vậy, những ai là người tu hành chân chính đều phải chuẩn bị cho mình điều này ngay trong đời này. Nếu gia đình và xã hội nào vợ chồng con cái đều biết qui y Tam bảo, biết giữ 5 giới lành thì cuộc sống sẽ hiền lành, đạo đức, không sợ trộm cướp, tà dâm hoặc thù hằn, ghét bỏ bởi ai cũng ý thức việc tu hành của mình. Người khéo biết tu thì tránh nhân xấu ác, như ngành y luôn khuyến khích ngừa bệnh hơn trị bệnh, đó là phù hợp với lời Phật dạy. Nhân xấu chúng ta không tạo thì quả xấu làm gì có, kẻ mê chờ quả khổ đến làm sao tránh khỏi, như người ăn trộm không biết sợ nhân xấu, đến khi bị bắt chịu tù tội mới sợ quả khổ. Đó là người sợ quả mà không biết sợ nhân. Khi hiểu rõ như thế, người tỉnh luôn sáng suốt không tạo nghiệp nhân ác nên chắc chắn không bị quả xấu. Phật nói, “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Bồ-tát biết nhân ác liền tránh nên không sợ quả xấu. Kẻ mê sợ quả vì khi vui chơi trác táng không sợ, tới khi gặp quả xấu thì than trời, trách đất. Cho nên, nói tới tu là nói tới người biết tỉnh sáng chứ không phải người ngu si, người mê vui trên sự đau khổ của kẻ khác, người tỉnh chỉ vui cái vui chung của nhiều người biết làm việc tốt.
Ở đây, Phật dạy người đời khi được những món ngũ dục như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều hay sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp khi cảm thấy vừa ý, hài lòng thì cho là vui. Chẳng những người đời mà tất cả chư Thiên cũng thấy như thế. Người trời thấy ngũ dục là vui nhưng khi chúng bị hoại diệt, tức khi chúng mất đi thì chừng đó mới thấy khổ nên trong người hiện lên 5 tướng suy. Bậc Thánh thấy vui khi nơi thân này đoạn diệt được phiền não tham-sân-si là cái mầm dẫn đi trong luân hồi sanh tử. Cái vui khi dứt mầm sanh tử mới là cái vui chân thật, vĩnh viễn và lâu dài. Sau đây, chúng tôi sẽ nêu lên những cái vui của người biết tu tỉnh.
Người biết tu tỉnh thì không làm các điều ác mà hay làm các việc lành, lúc nào cũng luôn giữ tâm ý mình được thanh tịnh, trong sáng, lặng lẽ nên vui. Lúc ngồi dưới gốc cây nhìn trời mây, cây cỏ, hoa lá, tâm hồn thanh thản, an định, cảm nhận một niềm vui tràn ngập khắp thân tâm, cảnh vật. Người tỉnh tu khi tâm thanh tịnh sẽ vui trên sự bình yên, hạnh phúc của vạn vật, không làm tổn hại bất cứ loài vật nào. Người đời ở chỗ vắng vẻ thì buồn chán, thường vui thích ở nơi nhộn nhịp, ồn náo.
Lại nữa, người tu tỉnh vui khi phá được vô minh, phiền não tham-sân-si. Giả sử có người gièm pha, chỉ trích, nói lời nhạo báng Phật pháp thì người tu nghe qua khởi niệm bực bội, muốn nói lại cho đã giận thì liền tỉnh giác, biết giận là phiền não mê mờ, nói lời xúc chạm gây buồn khổ cho người là tội lỗi nên ngang đó liền thôi, cơn giận từ từ lắng xuống; sau đó tâm được bình an vì lòng vui sướng thấy mình chiến thắng được cơn sân giận. Nếu ta không thắng được cơn giận thì phát ngôn bừa bãi, nói ra những lời đau đầu, nhức óc, kẻ nói qua người trả lại, lúc đầu thì đấu khẩu, sau thì đấu đá tay chân… Như vậy, vô tình làm khổ đau cho nhau mà chẳng được lợi ích gì. Giờ đây chúng ta tự phản tỉnh và thấy rõ từng tâm niệm của mình, niệm sân vừa khởi lên liền biết, không chạy theo nó. Đó là tự thắng mình, thắng được phiền não sân giận. Thế là mình được an ổn và mối quan hệ giữa mình và người bình thường, vui vẻ, không có chuyện buồn thương, giận ghét xảy ra. Thế cho nên người biết tu vui khi thắng được phiền não tham-sân-si, một cơn giận là một niệm buồn khởi lên liền biết dừng ngay, cứ như thế mà tu tỉnh từng phút, từng giờ, cho đến hằng ngày, hằng tháng, hằng năm thì sự an vui, hạnh phúc được trọn vẹn; ngược lại, hễ ai đụng tới là buồn giận, không biết tìm cách chuyển hoá chúng thì đau khổ dài dài. Như vậy, người tỉnh phá được vô minh, phiền não là gốc vui chân thật. Ngược lại, chúng ta để cho vô minh tăng trưởng, không điều phục nó là gốc của đau khổ. Vì vậy người tu phải thường xuyên phản tỉnh, chế ngự phiền não để được an vui, hạnh phúc. Thế gian có nhiều người thật đáng thương, hễ ai nói hay làm điều gì trái ý thì họ lớn tiếng, nạt nộ trả lại cho bằng được mới vừa lòng.
Lại nữa, người tu tỉnh vui khi biết làm lợi ích cho nhiều người. Họ đi làm từ thiện xã hội, đem cơm áo, gạo tiền, thuốc men, đồ đạt… đến tận vùng sâu, vùng xa đưa tận tay cho những người nghèo khổ, thiếu thốn trong cơn hoạn nạn; hoặc họ hướng dẫn, sẻ chia cho nhiều người có niềm tin trong cuộc sống, biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là chủ nhân ông của bao điều hoạ phúc. Người tu tỉnh càng làm lợi ích cho nhiều người thì càng giúp mình biết cách chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại chứ không phải tìm cầu đâu xa.
Lại nữa, người tu tỉnh vui khi buông xả được phiền não tham-sân-si, nhận ra ông Phật của chính mình ngay nơi thân này. Trong mỗi người ai cũng có tính biết sáng suốt nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế; giờ đây, biết khởi niệm chạy theo phải quấy, tốt xấu, đúng sai là vọng tưởng, là hư dối nên quyết định trở lại sống với ông Phật của mình thì được cái vui lâu dài.
Nếu chúng ta thấy tu là vui thì hãy nên cố gắng nỗ lực tiến tu để sống được với cái biết chân thật ngay nơi thân này. Chúng ta thấy ở thế gian này có ai giàu sang, nhiều quyền thế, thọ hưởng ngũ dục mà không khỏi đau bệnh, già yếu, chết chóc hay không? Khi nào chúng ta thoát ra khỏi cái khổ sanh tử thì mới được cái vui chân thật, lâu dài; nếu còn ở trong sanh tử mà có nhiều tiền lắm của thì cuối cùng cũng chỉ ra đi với hai bàn tay trắng. Chỉ có người tỉnh thức biết buông xả vô minh, phiền não mới thoát khỏi già-bệnh-chết và được cái vui lâu dài. Chúng ta thường thấy người thế gian không sáng suốt nên lấy cái khổ của người, vật để làm cái vui của mình. Người biết tu tỉnh luôn có lòng từ bi nên không bao giờ lấy cái vui trên sự đau khổ của người, vật. Tất cả chúng ta phát tâm tu là nguyện sống đời bình yên, hạnh phúc. Vậy người đã phát tâm tu theo đạo Phật thì suốt đời phải tinh tấn tu hành chứ không phải tu cầm chừng, nếu không lo tu khi cái chết đến làm sao trở tay cho kịp? Thế cho nên, người phát tâm tu chẳng những khi còn trẻ phải lo tu hành mà lúc về già lại càng phải tu nhiều hơn nữa, như thế mới có được nguồn an vui, hạnh phúc trọn vẹn. Được vậy, chúng ta sống trên cõi đời này không uổng phí chút nào, còn hơn sống bảy tám mươi năm mà chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, vui chơi, hưởng thụ, rồi khi già-bệnh-chết không biết mình đi về đâu . Vậy mà hầu hết những kẻ mê đều mắc kẹt trong đó. Chúng ta biết tu là người biết tỉnh thức, còn người không biết tu tỉnh tuy sống mà như kẻ say, vui trong cái mê muội trên sự đau khổ của người và vật. Vì vậy, chúng ta hãy mau sớm tỉnh thức, vui trong những việc làm thiện ích giúp người, cứu vật; được vậy khi sống cũng như lúc sắp lâm chung đều an ổn, nhẹ nhàng, bình yên, hạnh phúc.
Tóm lại, người biết tu tỉnh sẽ ý thức trong việc trau dồi, tích luỹ nhân cách, phẩm chất đạo đức để hoàn thiện chính mình và còn mở lòng từ bi chia vui, sớt khổ trong tình thương yêu bình đẳng. Muốn được tỉnh thức trọn vẹn trước tiên chúng ta phải biết quy kính Tam bảo, phát nguyện giữ gìn những giới đức để không làm tổn hại cho người và vật; không phạm 5 giới cấm, thọ Bát quan trai, tu Thập thiện và biết cung kính bố thí, cúng dường hay giúp đỡ, sẻ chia bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Nhờ vậy ta luôn sống an ổn, nhẹ nhàng trong bình yên, hạnh phúc.
Nhiều người quan niệm tôi khỏi cần quy y Tam bảo nhưng vẫn giữ giới, tu Thập thiện và làm nhiều việc phước đức để hoàn thiện chính mình, quan điểm trên không phải là sai, nhưng có điều này chúng ta cần tham khảo để hiểu và thông suốt cho tường tận hơn. Người biết sống hiền lương đạo đức và hay thường xuyên giúp đỡ người khác mà còn biết tu mười điều thiện thì dĩ nhiên sau này được phước báo lớn lao là sinh về cõi Trời làm Thiên ma, hưởng thụ ngũ dục lừng lẫy, như ý, muốn gì được đó; nhưng vì không có quy kính Tam bảo nên làm Thiên ma chống lại Phật pháp vì nghĩ mình là chúa tể các loài ma. “Ma” ở đây là sự hưởng thụ ngũ dục đầy đủ; dư dã tiền bạc, của cải; danh vọng, quyền lực tối cao; có nhiều thiên nữ cung kính, hầu hạ; ăn món ngon, vật lạ và ngủ nghỉ thoải mái; chính vì vậy mà quên lãng việc tu hành của mình, chỉ lo thụ hưởng ngũ dục tối cao, đến khi phước hết vẫn bị đoạ lạc trở lại như thường. Nếu làm phước ít hơn thì được sinh làm người trở lại, tuỳ theo mức độ phước báo mà được làm lãnh đạo các cấp từ thấp đến cao; như tích lũy phước vừa thì làm chủ tịch xã, cao hơn một chút làm cấp huyện và cứ như thế tăng lên theo phước báo. Thường người có nhiều phước báo mới được làm quan, làm quan thì mọi quyền lợi vật chất được đầy đủ. Mỗi ngày bận bịu với công kia việc nọ và được sự chiêu đãi của kẻ dưới quyền nên tối ngày ăn uống, tiệc tùng, nhà cửa sang trọng, nệm ấm chăn êm; gia đình người thân cũng được lo riêng chu toàn như thế.
Làm lãnh đạo thì giúp xã hội, đất nước phát triển tốt đẹp nhiều mặt, nhưng vì không quy hướng Tam bảo, phát nguyện trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh, nên khi có quyền chỉ lo riêng cho gia đình, người thân; bên cạnh đó còn phải đối đầu với kinh tế, chính trị xã hội; vì phải bảo vệ quyền lợi, địa vị của mình mà bất chấp các thủ đoạn, dễ dẫn đến sát phạt lẫn nhau; chính vì vậy dễ sinh ân oán, thù hằn vay trả, trả vay không có ngày thôi dứt. Khi còn đương chức thì mình có thể giúp đỡ nhiều người, khi hết kỳ hạn thì người khác lên và sẽ tìm cách khống chế lại mình. Chính vì những quyền lợi về chính trị mà chúng ta có thể tàn sát lẫn nhau để giành quyền lợi cho đảng phái của mình, do đó mà thế giới này luôn có xung đột, tranh chấp, chiến tranh để giành quyền sống được đầy đủ, sung túc hơn.
Người lãnh đạo một nước nếu là Phật tử chân chính, thuần thành thì họ sẽ đóng góp, phục vụ, dấn thân vì lợi ích chung mà ngày càng làm tốt mọi công việc. Cụ thể như đất nước Thái Lan gần 40 năm về trước so với Việt Nam họ thua xa lắc về mọi phương diện từ kinh tế, chính trị, đời sống an sinh xã hội; vậy mà giờ đây đất nước họ toàn thể người dân là Phật tử, kể cả những người lãnh đạo tối cao. Họ làm việc tôn trọng nhau trên tinh thần Phật pháp, nhờ vậy mà đất nước họ tiến bộ vượt bật về mọi mặt từ vật chất cho đến tâm linh con người. Họ biết đưa Phật pháp vào thực tế cuộc sống từ trong nhà trường cho đến bao trùm cả xã hội. Chính vì vậy mà đất nước họ tiến bộ vượt bật về mọi mặt. Từ người dân bình thường cho đến ông vua cao nhất đều phải tu học Phật pháp và mỗi người thanh niên đều phải thực tập lời Phật dạy tối thiểu từ 1 năm cho đến 3 năm.
Đất nước Nhật Bản của ngày xa xưa là phát xít, có thể nói họ là những người tàn ác nhất hành tinh này. Họ thống trị Việt Nam chỉ một thời gian ngắn mà hơn hai triệu người bị chết vì đói, không có lương thực để sống. Sau khi bị người Mỹ ném hai trái bom nguyên tử và phải đầu hàng vô điều kiện, từ đó họ bắt đầu có suy nghĩ vận dụng, thay đổi chính sách và lấy Phật giáo làm nền tảng để áp dụng cho tất cả mọi công dân. Giờ đây, họ đã thay da đổi thịt, từ con người tàn ác trở thành con người hiền hoà, nhân hậu, có nền thông tin khoa học điện tử hiện đại, tiến bộ nhất thế giới. Hình ảnh ấn tượng nhất để lại trong lòng người sau trận động đất là vô số con người thiếu thốn, đói khát phải sắp hàng đề chờ nhận phần ăn. Một chú bé khoảng 6, 7 tuối thân thể xanh xao, gầy còm, được người khác ưu tiên cho nhiều phần ăn nhưng em không nhận mà nói để dành cho những người đang thiếu thốn. Tiền bạc, của cải trôi lênh láng không phải của mình thì người dân đem giao cho nhà chức trách để trao lại cho khổ chủ. Tinh thần Phật pháp đã thấm nhuần trong lòng người dân nước Nhật nên khi họ gặp hoạn nạn, khó khăn như thế mà vẫn vui, vẫn chia sớt đầy đủ cho nhau không cần giành giựt.
Chúng tôi có biết một Phật tử đã đi hợp tác lao động tại đất nước này, anh ta nói sống ở nước Nhật khỏi phải lo nạn trộm cướp, giựt dọc linh tinh. Xe cộ để ngoài đường bình thường khỏi cần phải khoá vì ai cũng có lòng tự trọng cao, cái gì của mình mới xài, không phải của mình thì thôi, không tự ý lấy. Người dân ý thức cao như vậy nhờ biết giữ 5 giới của nhà Phật. Chúng tôi nhiều năm nay chuyên đi làm từ thiện ở vùng sâu, vùng xa để giúp đỡ người hoạn nạn nhưng chưa bao giờ thấy được những con người biết chia sẻ yêu thương với nhau thật sự. Họ lăng xăng, lao chao xúm lại giành giựt phần ít, phần nhiều. Rồi có những chỗ người có chức quyền ăn xén ăn bớt của người hoạn nạn công khai, chúng tôi nhìn những hình ảnh đau thương này mà hai hàng rơi lệ. Thật ra, nơi nào được Phật pháp thấm nhuần thì nơi đó có sự yêu thương bằng tình người trong cuộc sống với tấm lòng từ-bi-hỷ-xả và trái tim hiểu biết của họ tràn ngập khắp cả lòng người.
Chúng ta ai cũng có thể biết và hiểu những gì là xấu xa, tội lỗi làm tổn hại cho người và vật; nhưng một số người vẫn tán tận lương tâm, sống mất đạo đức lại còn chèn ép, bóc lột công khai của người khác. Người biết tu tỉnh chỉ vui khi thấy nhiều người cùng sống tốt đẹp, biết làm lợi ích cho xã hội trên tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Kẻ mê chỉ vui trên sự đau khổ của người và vật thì hỏi thế gian này sao không ngày càng mọc thêm những nhà tù để chứa những con người tệ nạn đó. Chúng tôi khi xưa cũng là những kẻ đã từng mê muội, chưa từng biết khuất phục một ai; vậy mà từ ngày gặp được Phật pháp cho đến bây giờ chúng tôi cũng đã thay da đổi thịt để chừa bỏ những thói hư, tật xấu, tuy chưa hoàn toàn hết hẳn nhưng cũng giảm bớt đáng kể.
Chút tâm tình cùng chư huynh đệ pháp lữ gần xa, chúng tôi luôn nguyện cầu hồng ân Tam bảo thường xuyên gia hộ cho tất cả mọi người trên thế gian này đều tỉnh thức hết, lấy cái vui vì lợi ích cho tất cả chúng sinh mà sống an ổn, nhẹ nhàng trong bình yên, hạnh phúc.
ÁI NẶNG TÌNH SÂU QUÊN TÌNH CHA MẸ
Tiếng sét ái tình nó làm cho con người ta tê tái cả tâm hồn như si như dại, trên đời này không có gì yêu thương sâu đậm thiết tha bằng tình ái. Trong ái tình, việc chung chăn xẻ gối giữa vợ chồng với nhau có khi lướt qua tình cha mẹ, có người thà bỏ cha mẹ chứ không thể xa rời tình ái. Sự thật quá đau lòng, ít người nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, mẹ mang nặng đẻ đau, cha làm lụng nhọc nhằn vất vả nuôi con. Đến khi khôn lớn cha mẹ dựng vợ gã chồng cho con, để cho con được yên bề gia thế.
Do si mê trong tình ái và bị sự ràng buộc của vợ chồng, nên chúng ta chỉ biết lo cho vợ chồng con cái mình nhiều hơn. Mấy ai thấu hiểu công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha, biết ơn và đền ơn là đạo lý uống nước nhớ nguồn, luôn nhắc nhở chúng ta nên biết cung kính hiếu dưỡng mẹ cha.
Chúng ta nên nhớ từ khi mở mắt chào đời mẹ đã móm cho con dòng sữa ngọt, dòng sữa ấy là chất liệu ngọt ngào được kết tinh bằng tấm lòng yêu thương của cha mẹ. Nhưng vì lỗ mũi con người lúc nào cũng nhìn xuống, cho nên ai lớn khôn rồi lập gia đình và có trách nhiệm nuôi dạy bảo bọc vợ con và lo lắng cho gia đình riêng của mình nhiều hơn là thương yêu cha mẹ, để cung kính phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, chuyện đời là như thế đó.
Trong cuộc sống của chúng ta, có những lúc ta phải tự hỏi rằng: Ta sống trên đời này để làm gì? Và ta từ đâu đến? Sau khi chết ta sẽ đi đâu? Và ý nghĩa thật sự cho cuộc đời của chúng ta là gì? Tại sao ta không thật sự tìm thấy bình yên hạnh phúc trong cuộc đời của mình? Ta phải làm gì để tìm ra nguyên lý chánh đáng cho cuộc đời của mình? Quả thật, một con người ai cũng được sinh từ sự luyến ái của cha mẹ mà có nên hình hài dóc dáng này, đó là quy luật chung cho loài người chúng ta.
Đời sống con người thật là phong phú và cũng lắm nhiều rắc rối, bởi vì con người biết suy nghĩ, biết nói năng, biết hành động. Nếu suy nghĩ, nói năng, hành động theo chiều hướng tốt đẹp thì lợi ích cho mình người thân, gia đình và xã hội. Ngược lại, gây ra phiền muộn, khổ đau cho nhân loại.
Và cho đến sau khi chết, sự sống vẫn tiếp tục dưới nhiều hình thức khác nó chỉ thay hình đổi dạng tuỳ theo nghiệp nhân tốt hay xấu mà ta đã gieo trong hiện tại. Dù tu chứng đến thành Phật thì các Ngài vẫn có chuyện để làm, tiếp tục công việc độ sinh đó là hạnh nguyện cao cả của các vị Bồ tát tuỳ duyên trở lại thế gian để giúp đỡ nhân loại dưới nhiều hình thức khác nhau và công việc đó không bao giờ chấm dứt. Mạng sống của con người có ngày chấm dứt để thay hình đổi dạng, nhưng sự sống và dòng đời luôn luôn trôi chảy không cùng tận.
Tình ái vốn là nguồn gốc của sinh tử, mà cũng là điều kiện tất yếu để cho tất cả chúng sinh hiện hữu trong cõi Ta bà vui ít khổ nhiều này. Ái là lòng yêu thương từ cha mẹ, vợ con, anh em, bằng hữu, công danh, phú quý, văn chương, thi phú, đạo thuật, kỹ nghệ, quần áo, ăn mặc, nhà cửa, ruộng vườn, rừng suối, hoa cỏ, phong cảnh đẹp đẽ v.v…
Vậy cội gốc của sinh tử là gì? Người xưa nói: “Nghiệp không nặng không sinh vào cõi Ta bà, lòng tham ái không dứt không sinh vào Tịnh độ”. Nên biết, ái là nguồn gốc của sinh tử. Người không biết nguồn gốc của sinh tử, chỉ tu niệm một bên, thì chỉ hưởng phước báo cõi trời người. Vì thế, những người tu theo Phật, trước tiên, cần biết lòng luyến ái tham đắm là nguồn gốc của sinh tử, muốn được tự tại, giải thoát chúng ta cần phải đoạn dứt nguồn gốc tham ái ấy. Như trước mặt chúng ta thấy vợ chồng con cái, gia nghiệp, tài sản, địa vị danh vọng ta phải nghĩ rằng: Tất cả những thứ này khi chết không mang theo được, kẻ ở người đi càng thêm lưu luyến mà không ra khỏi luân hồi sinh tử.
Con người ai cũng sống bằng tình yêu thương chân thật thì chắc hẳn mọi thứ xung quanh ta sẽ tốt đẹp vô cùng. Bầu trời này sẽ trong sáng, quang đãng và không còn những áng mây đen mù mịt, mặt đất này sẽ không còn những cảnh lầm than, cơ cực, và những chuyện đau thương vì hiểu biết sai lầm mà gây khổ đau cho nhau.
Tình cảm nó giống như những hạt mưa, mưa càng to thì có thể dập tắt đi ngọn lửa tham lam ích kỷ, sự căm hờn của lòng thù hận bởi ganh ghét và tật đố, nhưng nó có thể là ngọn lửa của tình thương yêu, ước mơ và hy vọng, bằng sự khoan dung của trái tim hiểu biết, cùng san sẻ cho nhau với tấm lòng vị tha. Tại sao chúng ta lại để cho những ngọn lửa ấy lại vụt tắt đi trong đêm tối vô minh.
Tình thương yêu chân thành, hay nỗi xót xa những mãnh đời bất hạnh sự cảm thông để cùng nhau san sẻ hoặc nâng đỡ, và tha thứ cho nhau đều xuất phát từ “tình thương yêu chân thật”. Nếu một khi chúng ta đã đánh mất giá trị và phẩm chất bằng tình người trong cuộc sống thì ta đã tự tách mình ra khỏi thế giới của hiểu biết, nhận thức đúng đắn và con người tâm linh của chính mình.
Hạnh phúc lớn nhất của con người khi còn tồn tại trong thế giới này đó chính là được sống hoà hợp với nhau, được tắm mình trong biển cả bao la tràn đầy tình yêu thương chân thật của mọi người.
Người xưa nói: “mất của cải là mất ít, mất tình thương là mất nhiều” và có khi ta mất hết tất cả vì tham ái, si mê. Thật vậy một người sống mà không có tình cảm thì trở nên hung ác và tàn nhẫn vô cùng, cha có thể giết con, vợ chồng không biết tôn trọng nhau, anh em tranh giành của cải, bạn bè vì quyền lợi của riêng mình mà hại nhau. Tất cả là vì họ không có tình thương yêu chân thật, nên không biết cảm thông và tha thứ cho nhau.
Chúng ta hãy nên sống bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, bằng chính những gì mà ta đã có được, chúng ta sống bằng tình người và đừng để cho cái bệnh vô cảm len lỏi vào đời sống này, hãy lấy tình thương yêu nhân loại mà làm ngôi vị trung tâm của cuộc sống, hãy mở rộng trái tim mình, hãy quan tâm và chia sẻ đến nhiều người hơn, hãy thông cảm và sẵn sàng nâng đỡ những mảnh đời bất hạnh, hãy biết quý trọng tình cảm và tha thứ lỗi lầm của người khác.
Hằng ngày chúng ta thường đối mặt với những bộn bề của cuộc sống, nhiều lo toan trong công việc hay có lúc chúng ta đắm chìm trong những phút giây lạc thú, vui vẻ bên bạn bè mà đã lãng quên đi phút giây êm đềm, hạnh phúc, những hình ảnh thiêng liêng cao cả của cha mẹ, người ngày đêm thương nhớ, mong chờ, dõi theo bước chân của chúng ta trong từng phút, từng giây.
Ngày xưa, ở một kiếp nọ Mục Kiền Liên được sinh ra trong một gia đình trung lưu giàu có tuy đã đến tuổi trưởng thành nhưng chàng không thèm cưới vợ, định ở vậy để nuôi dưỡng báo hiếu cha mẹ già. Vì muốn có con nối dõi tông đường kế thừa gia phong nên cha mẹ ép chàng lấy vợ.
Chàng nhiều lần từ chối nhưng cha mẹ không chịu cuối cùng vì thương cha mẹ nên chàng đành chấp nhận cưới vợ. Buổi ban đầu khi cô con dâu mới về nhà chồng, cô ta nuôi dưỡng chăm sóc cha mẹ chồng chu đáo và làm tròn bổn phận đối với người vợ, làm cho những nhà hàng xóm ước ao và ganh tị, phải chi cô ta là con dâu nhà mình thì vui vẻ và hạnh phúc biết mấy.
Rồi thời gian lặng lẽ trôi qua theo năm tháng, cha mẹ già ngày lớn tuổi bị bệnh mù lòa đôi mắt, làm cho người vợ càng thêm khổ sở nhọc nhằn, đã vậy còn hay bị la rầy vô cớ không có một ngày được an lạc thảnh thơi. Người vợ trẻ đó lớp thì phải chăm sóc nuôi dạy con cái, lớp thì phải chăm sóc cha mẹ già mù loà, công việc cứ như thế xảy ra hằng ngày làm cho nàng dây sinh tâm cau có bực dọc và oán giận cha mẹ chồng.
Do áp lực công việc gia đình, ngày nào cô ta cũng trách móc cằn nhằn với chồng về chuyện cha mẹ già lớn tuổi sanh tật khó khăn, trách móc đủ điều làm cho chàng khó xử bởi vì phải lo cơm áo gạo tiền cho cả gia đình. Cô vợ than phân, trách phận nói rằng mình bạc phước nên phải chịu khốn khổ như thế này mỗi ngày, nào là cha mẹ cơm nước đổ rãi lung tung, ăn uống tắm rửa giặt giủ tiểu tiện khó khăn, vậy mà cha mẹ lúc nào cũng than vãn trách móc cằn nhằn khó chịu, có khi còn chửi mắng nạt nộ cô. Cô vợ luôn tạo ra hoàn cảnh trái ngang, éo le để bắt buộc chồng mình phải chọn lựa.
Một là anh nếu vì cha mẹ thì vợ chồng chúng ta chia tay kể từ đây, nếu vì em và sự nghiệp cho con cái về sau thì trong hai anh phải chọn một. Một là nuôi cha mẹ hay là nuôi vợ con.
Trong hoàn cảnh éo le cha mẹ già mù lòa, cuộc sống gia đình ngày càng thêm khó khăn, chật vật làm cho người chồng thêm lo lắng đủ điều, không biết giải quyết cách nào để cho trọn vẹn bên hiếu và bên tình. Người chồng cứ đắn đo suy nghĩ mãi, vì điệp khúc này cứ được lập đi lập lại mỗi ngày. Bên hiếu bên tình, chọn bên nào đây? Chàng vì thương cha mẹ già mù loà đôi mắt nên bỏ không đành, khi nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục mang nặng đẻ đau, nhờ vậy mà ngày hôm nay mình có mái ấm gia đình, gặp cô vợ quá khắc khe và tham lam ích kỷ, làm cho người chồng khó xử!
Thật ra trong cuộc đời này, không có gì thiêng liêng và cao quý bằng công ơn cha mẹ, trong các thứ tình không tình nào bằng tình mẹ cha, nhưng có mấy ai hiếu kính và nuôi dưỡng cha mẹ khi tuổi già ? Cha mẹ tuổi già thường hay bệnh hoạn đau nhức lại không làm được việc gì giúp ích cho con cháu, đó là thêm gánh nặng cho gia đình, vừa tốn kém vừa nhọc nhằn, nên ngày xưa hay có quan niệm đem bỏ cha mẹ vào rừng khi tuổi già.
Có một người cha đang đóng chiếc xe để chở cha mình bỏ vào rừng, một hôm đứa con biết được mới nói, khi nào ba đưa nội đi ba nhớ đem xe về nhà cho con, người cha mới hỏi đem xe về nhà cho con để làm gì? Dạ thưa cha, con để dành chiếc xe đó chờ đến khi nào ba tuổi đã già, con sẽ lấy xe chở ba đi cũng như ông nội ngày hôm nay. Người cha nghe con mình nói như vậy, ngẫm nghĩ lại một hồi lâu, rồi từ bỏ ý định chở cha mình vào rừng nữa và từ đó bắt đầu chăm sóc ân cần chu đáo hơn, để đền đáp công sinh thành dưỡng dục.
Nuôi cha mẹ lúc tuổi già rất khó, vì thân thể bệnh hoạn yếu đuối, đi đứng khó khăn hoặc bệnh tình nặng hơn phải nằm một chỗ, nếu gia đình nào nghèo khổ thiếu thốn khó khăn thì việc chăm sóc và nuôi dưỡng cha mẹ lúc tuổi già rất khó. Nhiều khi con cái bận bịu công việc nên lơ là trong việc chăm sóc thì cha mẹ trách móc đủ điều, giận dỗi, hờn mát thật khó lòng.
Một hôm đức Phật lấy một ít đất để trên đầu ngón tay, rồi hỏi các thầy tỳ kheo, đất trên đầu ngón tay ta nhiều hay đất trên quả địa cầu này nhiều? Các thầy tỳ kheo đồng trả lời : Dạ đất trên quả địa cầu nhiều ạ. Phật nói tiếp, người có hiếu đối với cha mẹ trên thế gian này rất ít.
Bởi vì hoàn cảnh đã làm cho con người phải vật lộn với cuộc sống mà kiếm miếng ăn nên đâu có thời gian chăm sóc cha mẹ già và nuôi dạy con cái đúng mức. Phật lúc nào cũng vì lòng từ bi thương xót chúng ta nên Ngài nhắc nhở và chỉ dạy cho ta biết được đạo lý làm người là luôn hiếu kính và dưỡng nuôi cha mẹ.
Uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây là câu ca dao tục ngữ của dân tộc Việt Nam mà tổ tiên ông bà chúng ta luôn nhắc nhở con cháu để biết nhớ ơn và đền ơn cha mẹ. Cha mẹ là hai đấng sinh thành và nuôi dưỡng cho ta nên người vậy mà ta không còn biết ơn, hỏi sao người khác ta có thể giúp đỡ và chia sẻ cho được.
Chàng trai đó không nỡ nhẫn tâm bỏ cha mẹ, nhưng hoàn cảnh lúc đó thật là khó xử vô cùng, ngày nào cũng điệp khúc ai oán cung sầu, mà người vợ trẻ lúc nào cũng khóc lóc kể lễ, đầu bù tóc rối, mặt mày bí xị, nước mắt ràn rụa, khiến người chồng càng thêm buồn khổ không biết giải quyết cách nào đây. Tình chung chăn xẻ gối, cùng với sắc đẹp mặn mà của người vợ trẻ, và tương lai của con mình về sau như có một ma lực bắt buộc người chồng trong hai phải chọn một.
Đêm đó, người chồng không sao ngủ được vì chuyện vợ con và cha mẹ. Nước mắt đã lăn tròn trên đôi má của chàng và không còn cách nào khác hơn, thà chấp nhận bỏ cha mẹ mà nuôi vợ, nuôi con.
Nghĩ vậy sáng hôm sau, chàng trai mới đến thủ thỉ với cha mẹ rằng: Bây giờ cha mẹ đã lớn tuổi rồi, không còn biết sống bao lâu nữa, nay con thỉnh cha mẹ về quê, thăm gia tộc nội ngoại một lần sau cuối để sau này nhắm mắt lìa đời, khỏi phải ân hận tiếc nuối quê cha đất tổ.
Cha mẹ, nghe con mình nói có lý nên đồng ý đi ngay. Ngờ đâu bị rơi vào bẫy của người vợ ác tâm. Con người ta do tham cầu quá mức nên mất hết phẩm chất nhân cách đạo đức, chỉ biết thủ lợi cho riêng mình còn ai sống chết mặc kệ, sẵn sàng làm những điều tội lỗi để bảo vệ cái ta ích kỷ của mình. Ít ai nghĩ đến công sinh thành dưỡng dục của mẹ cha, thâm ân như trời biển không gì có thể sánh bằng. Ít ai nghĩ mình được sinh ra từ đâu, ai nuôi mình khôn lớn và ngày nay sống cơm no áo ấm, công thành danh toại là nhờ ai?
Thế là chàng trai thuê một chiếc xe ngựa, tự mình cầm dây cương chở thẳng cha mẹ vào rừng sâu, đến chỗ đã khuất người, chàng trai trao dây cương cho cha rồi nói: Dạ thưa cha mẹ: đoạn đường này nỗi tiếng có rất nhiều bọn cướp, con phải xuống đi trước để dò la tin tức và canh chừng chúng.
Đi được một đổi chàng giả làm bọn cướp đánh đập cha mẹ tàn nhẫn, nhưng ông bà không nghĩ đến thân mình bị đánh đập mà trong lòng luôn nhớ nghĩ đến con, nên ráng sức la lớn. Con ơi! Hãy mau chạy lẹ đi con, kẻo bị bọn cướp đánh chết không về nuôi vợ nuôi con được, cha mẹ đã già rồi nếu có chết cũng không sao.
Thật là, đứt từng khúc ruột!
Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ con tính tháng tính ngày.
Người con cứ ngỡ rằng đây là một giấc chiêm bao, trong lúc sinh ly tử biệt cần kề với cái chết mà cha mẹ già lúc nào cũng thương tưởng nhớ đến mình.
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Những âm vang ấy tự nhiên hiện lên rõ ràng trước mắt anh như đang thức tỉnh cơn điên cuồng ngu si dại dột của mình.
Trong kinh Phật dạy:
Cha mẹ già khi trăm tuổi,
Vẫn còn thương con tám mươi.
Thật ra trên cõi đời này không có gì cao quý và thiêng liêng bằng tình cha mẹ. Dù suốt cuộc đời hai vai ta cõng cha cõng mẹ lo cho ăn uống cung phụng đầy đủ các món ngon vật lạ suốt một đời cũng chưa trả hết công ơn cha mẹ. Vậy mà, chàng trai đó vì nghe theo tiếng gọi của tình yêu, bị tiếng sét ái tình làm mê muội mà nỡ đành lòng tàn nhẫn đến thế ư!
Tình cha mẹ thương con như biển rộng sông dài mênh mông vô cùng tận. Trong cơn mê sảng, điên rồ cuồng dại, chàng trai chợt tỉnh ra, rụng rời tay chân, nói chẳng nên lời, bất giác nghẹn ngào, quỳ xuống ôm chầm lấy cha mẹ mà van xin tha tội chết, ăn năn sám hối lỗi lầm mong cha mẹ thứ tha.
Xong rồi, anh ta đưa hai ông bà già về nhà trở lại hết lòng thờ kính hiếu dưỡng và đuổi cô vợ đi, Vợ anh hồn vía lên mây quỳ lạy trối chết mong anh ta tha thứ cho một lần để ở lại nuôi con và nuôi dưỡng mẹ cha. Với lòng hỷ xả, anh cũng xin mẹ cha tha thứ cho cô con dâu.
Do lòng tham con người không bến bờ nhất định nên lúc nào cũng ích kỷ nhỏ nhoi, nghĩ rằng cha mẹ già là gánh nặng của gia đình, thêm phần tốn kém và chẳng lợi ích gì. Ít ai nghĩ mình từ đâu ra, nếu không có cha mẹ nuôi nấng bảo bọc làm sao ta sống đến giờ này, để được nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con ngoan. Thế mới biết:
Vì tình chăn gối đậm đà
Quên đi ân nghĩa mẹ cha thuở nào.
Chỉ vì không biết tu trì
Nên đành bất hiếu cũng vì ái ân.
Cái tình đầu ấp tay gối giữa vợ chồng với nhau, lúc nào cũng đầm ấm mặn nồng hơn, nên đôi lúc nó lướt qua tình cha mẹ. Trên đời này không có gì yêu thương tha thiết bằng ái tình, người ta đành lòng bỏ hết tất cả để đi theo tiếng gọi của tình yêu và sẵn sàng làm những điều tàn ác dã man nhất để bảo vệ tình yêu, mà một con người bình thường không dám làm, như trường hợp trong câu chuyện trên.
Đành đoạn, nhẫn tâm, mất hết tính người chỉ vì con tim véo gọi. Đau lòng, chua xót, ngậm ngùi, đắng cay, may mà chàng trai ấy còn có chút lương tâm ăn năn sám hối kịp thời. Không thì,
Tội này chồng chất cao thành núi,
Biết đến chừng nào mới trả xong.
Công cha nghĩa mẹ sinh thành
Trời cao biển rộng cũng không sánh bằng.
Mặc dù đã ăn năn hối hận, tận tâm hiếu dưỡng nhưng cha mẹ già sức yếu lại bị đánh đập nữa, nên một thời gian ngắn hai ông bà cũng hóa ra người thiên cổ. Chàng trai đó vì ác nghiệp quá nặng nề, nên nhiều kiếp về sau bị đọa đày chịu khổ trong địa ngục.
Và cũng từ nhân duyên này, chàng trai đó mới phát nguyện lớn đời đời, kiếp kiếp lúc nào cũng hiếu dưỡng với cha mẹ. Nên thời Phật tại thế, chàng trai đó chính là Mục Kiền Liên xuất gia tu theo Phật được chứng quả A La Hán thần thông đệ nhất bên Tăng. Vì thương mẹ hiện tiền không biết quý kính Tam bảo hay làm những điều xấu ác hại đến nhiều người, xan tham bỏn sẻn, keo kiệt ích kỷ, chết rồi không biết thác sanh về đâu. Ngài dùng thần thông đi tìm mẹ, mới biết mẹ mình bị đọa lạc trong loài ngạ quỷ tức quỷ đói chịu khổ sở vô cùng.
Thương mẹ đói khát khổ sở, thân thể tiều tuỵ. Ngài trở về trần gian xin được bát cơm liền tức tốc dùng thần lực để dâng bát cơm đó cho mẹ ăn. Bà ta đói khát đã nhiều ngày nên khi thấy cơm, một tay bà che bát cơm lại vì sợ các quỷ đói khác thấy xin, một tay bốc ăn, nhưng nghiệt ngã thay cơm hóa thành lửa ăn không được, làm bà ta đau khổ vô cùng.
Mục Kiền Liên thấy mẹ mình như vậy nên động lòng thương xót, Ngài vận dụng thần thông để giúp cho mẹ được no đủ, nhưng vô hiệu quả, vì nghiệp ác của bà quá nặng bèn trở về nhờ Phật ra tay cứu độ.
Phật dạy mẹ ông khi còn sống tham lam bỏn sẻn, tâm địa ác độc, nên sau khi chết bị đọa làm quỷ đói, một mình ông không đủ sức để cứu mẹ mà phải nhờ công đức tu hành thanh tịnh của chư Thánh Tăng trong mùa an cư kiết hạ, may thay mới cứu được mẹ ông.
Tôn giả Mục Kiền Liên mới thực hiện theo lời Phật dạy làm lễ cúng dường Trai Tăng, nhờ vậy mẹ Ngài thoát được kiếp quỷ đói mà sanh về cảnh giới an lành. Tuy nhiên do ác nghiệp quá khứ còn xót lại, nên khoảng cuối đời Ngài bị một số người ác tâm dùng gậy đánh chết.
Một số thầy Tỳ kheo mới thắc mắc hỏi Phật, tại sao Ngài không dùng thần thông để thoát chết.
Phật dạy thần thông không chuyển được nghiệp lực.
Bình thường tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông biến hóa vô song, qua lại trong các cõi trời người như trở bàn tay, đến khi nghiệp đến Ngài không dùng thần thông được nữa, nên đành phải chịu chết để trả nghiệp quá khứ còn xót lại.
Như chúng ta đã biết, thần thông chỉ là diệu dụng khi mình còn sống chúng ta có thể thi thố thần thông dời núi lấp biển hoặc cầu mưa gió nhưng đến khi nghiệp báo đến, thần thông vẫn bất lực trước quả xấu ác của chính mình. Nếu thần thông mạnh hơn nghiệp báo thì thế giới này không ai sống được, người ta sẽ đua nhau luyện thần thông để làm bá chủ thiên hạ.
Như vậy có thần thông để làm gì? Bởi do quá khứ nhiều đời ngài Mục Kiền Liên từng làm nghề đánh bắt cá tàn hại các loài vật nhiều quá và có một kiếp Ngài bất hiếu tàn nhẫn với cha mẹ vì vợ con. Cho nên dù kiếp hiện tại Ngài có tu hành chứng quả, nhưng vẫn phải trả ác nghiệp khi xưa còn xót lại.
Qua câu chuyện trên là một bài học nhân quả công bằng không thiên vị một ai, siêng năng tinh tấn tu hành thì chứng quả giải thoát, gieo tạo ác nghiệp thì đến hồi đủ duyên phải trả quả xấu. Nhưng, người tu trả quả khác với người đời là khi quả xấu đến vẫn an nhiên tự tại, không oán hận thù hằn người hại, ngược lại luôn mở rộng lòng từ, bi, hỷ, xã, sẳn sàng bao dung tha thứ và độ lượng, cho nên nhân quả xấu kể từ đây chấm dứt không còn tác động chi phối nữa.
Còn chúng ta khi gặp quả xấu đến thì oán giận thù hằn, đổ thừa tại bị thì là mà không biết tất cả đều do mình tạo lấy có khi làm cho nhân quả xấu trở thành lớn mạnh thêm. Song, người Phật tử thời bây giờ vẫn thích thần thông hơn, nghe ở đâu có linh ứng liền tranh nhau đi đến đảnh lễ cầu xin đủ thứ. Vì thói quen của con người thích hiếu kỳ và ưa điều mầu nhiệm huyền bí và thích cầu khẩn van xin hơn là tu tập. Do đó, dễ bị người gạt gẫm dụ dỗ cuối cùng rơi vào mê tín dị đoan không làm chủ được bản thân mà làm những điều tà vạy.
Trở lại câu chuyện thật của tôn giả Mục Kiền Liên là một bài học quý giá cho cuộc đời nhằm giúp cho chúng ta có thêm một nhận thức sáng suốt về công cha nghĩa mẹ. Đàng rằng ai lớn lên cũng phải có vợ có chồng để xây dựng hạnh phúc gia đình và đóng góp cho xã hội. Nhưng nếu không có cha mẹ thì làm sao ta có thân này và theo quy luật nhân quả tương duyên trong đạo làm người việc thờ kính hiếu dưỡng cha mẹ là một lẽ đương nhiên vì nó nói lên tinh thần biết ơn và đền ơn.
Ta biết hiếu thảo với cha mẹ, biết đền ơn đáp nghĩa thì sau này con cháu ta cũng sẽ biết hiếu thảo và nó sẽ trở thành một truyền thống tốt đẹp là đạo lý uống nước nhớ nguồn, để nhắc nhỡ cho mọi người chúng ta ai cũng phải biết như thế là đạo lý chân chính trong cuộc đời làm người.
CON MẮT THỨ HAI
Nói đến con mắt thứ hai là nói đến cái thấy phân biệt của con mắt. Có ba người đi chợ cùng ghé vào hàng vải để mu, nhìn xấp vải cô A khen đẹp, chị B lại chê xấu, thím C thì thấy không đẹp mà cũng không quá xấu. Đẹp hay xấu tùy theo cách nhìn và sự phân biệt của mỗi người, vì sự hiểu biết, nhận thức không ai giống ai, nên có đẹp xấu khác nhau là vậy. Trong mỗi người chúng ta, ai cũng có hai con mắt, nhưng con mắt nào là mắt chánh, con mắt nào là con mắt thứ hai.
Mắt chánh thì thấy biết đúng như thật mà không thêm một cái gì vào, nên thấy chỉ là thấy. Như chúng ta đi ra ngoài chợ, người-vật-đồ đạt được hiện bày trước mắt, đủ thứ sắc thái, hình ảnh xanh, vàng, đỏ, trắng, nhưng ta không chen vào một ý niệm nào, ta chỉ thấy như thế rõ ràng, không lầm lẫn.
Có người hỏi thiền sư Bồ Tát Nghìn Tay Nghìn Mắt, “mắt nào là mắt chánh?”
Thiền sư nói, “ví như người trong đêm tối, với tay ra phía sau tìm chiếc gối, ngay khi ấy là mắt chánh”.
Trong đêm tối không có đèn, cái gì biết mà tìm gối? Khi chúng ta đã sống với con mắt chánh rồi thì con mắt thứ hai không thể tác động được. Vậy tất cả quý vị chọn mắt nào? – Dạ mắt chánh!
Hai con mắt, nếu ta chỉ mắt trái hay mắt phải thì cả hai đều không đúng, vì cả hai đồng thời thấy thì bảo làm sao có con mắt thứ hai được? Vây ai trong chúng ta có thể chỉ ra được?
Bồ Tát Nghìn Tay là tượng trưng cho việc làm không biết mệt mỏi vì lợi ích tha nhân, sẵn sàng dấn thân, đóng góp, chia sẻ và nâng đỡ để mọi người sống thương yêu nhau bằng trái tim hiểu biết. Ngàn mắt là tượng trưng cho trí tuệ sáng suốt, biết soi sáng lại chính mình và muôn loài vật mà không bị người-vật làm ngăn ngại, nhờ tâm định tĩnh sáng trong.
Để làm thế nào biết được con mắt thứ hai, chúng ta hãy nghe câu chuyện đức Phật trong một kiếp quá khứ, đang trên đường hành Bồ Tát đạo. Thuở ấy, Ngài đang làm vua trị vì thiên hạ, sống một đời vương giả, thụ hưởng cả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan, và tất cả thần dân thiên hạ.
Do túc duyên nhiều đời đã biết tu nhân tích đức, nhà vua chán ngán ngai vàng, không còn thiết tha, mong muốn những lạc thú trên trần gian này nữa. Ngài bỏ hết tất cả để đi vào rừng sâu, chuyên tu thiền định, mong được sớm giác ngộ, giải thoát mà cứu độ chúng sinh.
Hoàng hậu hay tin nên đuổi theo và cuối cùng, gặp được nhà vua trên đường đi. Hoàn cảnh éo le như vậy, vua muốn tiến tu mà vẫn bị chướng ngại vì tình chồng, nghĩa vợ. Vua hết lòng năn nỉ và khuyên nhủ bà hãy quay về, tiếp tục hưởng vinh hoa phú quý, sống đời sung túc, dư dã. Lòng vua đã muốn, nhưng hoàng hậu không buông tha, ví ái ân sâu nặng nên nhất quyết một mực đòi đi theo, thà sống có đôi có lứa, giữ trọn vẹn một lòng chung thủy.
Trước tình thế ngặt nghèo đó, vua không biết giải quyết cách nào cho ổn thỏa. Trời Đế Thích muốn tiếp thêm sức mạnh cho ngài để vượt qua vòng luyến ái, nên mới hiện ra một người thợ mộc ở gần bên bìa rừng. Vua và Hoàng hậu vừa đi tới đã thấy anh thợ mộc đang cầm thanh gỗ, nhắm xem coi nó thẳng mực hay chưa? Nhưng anh ta chỉ nhắm bằng một con mắt, vua thấy lạ mới hỏi anh, “vì sao phải nhắm bớt một con mắt?”. Anh thợ mộc nói, “nếu có con mắt thứ hai thì hai con nó tranh nhau, khó nhìn chính xác được”.
Vua nghe nói vậy, tâm ông bừng sáng ra, nên nghĩ rằng, “ta đã chán cảnh xa hoa, phù phiếm, đua chen, giành giựt của thế gian ái nặng, tình sâu, nên mới đi vào rừng sâu để tìm sự an tĩnh của nội tâm, một lòng muốn vứt bỏ hết mọi thứ trên cõi đời này. Nhưng bên cạnh ta còn có Hoàng hậu theo sau, đó cũng là con mắt thứ hai làm chướng ngại quá trình tu tập của ta”. Nghĩ vậy xong, nhà vua liền cám ơn anh chàng thợ mộc, rồi tiện tay bẻ một cành cây nhỏ đưa cho Hoàng hậu và hỏi rằng, “này, tiện thiếp có thể làm cho cành cây dính trở lại thân của nó như cũ được không?”
Hoàng hậu thưa, “dạ thưa bệ hạ, không thể nào được ạ”.
Nhà vua nói, “cũng vậy, khi nào cành cây dính trở lại thân như cũ, thì chúng ta sẽ sống trở lại với nhau, giờ thì chúng ta mỗi người có một con đường riêng”. Nói xong, nhà vua bỏ bà ở lại một mình rồi mất hút trong rừng sâu, để lại trong bà nỗi nhớ, niềm thương trong cô đơn, tiếc nuối và buồn khổ.
Câu chuyện ngụ ngôn trên đã giúp chúng ta thấy được con mắt thứ hai chưa? Có nhiều người vì con mắt thứ hai nên sống ngu, chết dỡ suốt cả một đời, mà chưa có một ngày thật sự hạnh phúc. Tại sao chúng ta không dám can đảm nhắm bớt một con mắt, để được sống đời bình yên, hạnh phúc mà không bị phiền não tham-sân-si và mọi thứ ràng buộc của thế gian chi phối.
Bây giờ, chúng ta hãy cùng nhau chiêm nghiệm lại lời nói của anh thợ mộc coi ý nghĩa sâu xa của nó như thế nào. Nếu có con mắt thứ hai thì hai con nó tranh nhau nên khó nhìn chính xác khúc gỗ thẳng hay cong. Người tu như chúng tôi đã phát nguyện trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh, từ bỏ gia đình người thân để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm thực hiện lý tưởng giác ngộ, giải thoát mà cùng nhau chia vui, sớt khổ.
Nếu chúng ta không dứt khoát và có lập trường vững chắc, cứ để luyến ái tình thâm ràng buộc hoài, thử hỏi làm sao ta thực hiện ước mơ và hoài bão của mình. Tiền tài, danh vọng, vợ đẹp, con ngoan, uống ăn và ngủ nghỉ cứ như thế mà trở thành con mắt thứ hai, đeo bám ta dai dẵng từ đời này sang kiếp khác, không có ngày thôi dứt.
Trên con đường tu học, nếu ta không can đảm bỏ bớt con mắt thứ hai, mà thậm chí còn thêm nhiều con mắt khác vào, ta không dứt khoát, không can đảm, không chịu buông xả, vậy làm sao ta có đủ khả năng để vươn lên, vượt qua cạm bẫy cuộc đời, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ tất cả chúng sinh.
Ta cũng phải mạnh dạn và can đảm dứt khoát như nhà vua thì họa may mình mới có thể thực hiện lý tưởng cao cả, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Ta dám chấp nhận bỏ cha mẹ, xa lìa người thân yêu, để sống đời giác ngộ, giải thoát, nhưng ta lại không chịu buông tất cả, để được tất cả như đức Phật khi xưa.
Ta bây giờ có gì để buông, sự nghiệp chưa có, tình yêu cũng không, mọi thứ ta đang sống đều nhờ vào tấm lòng của Phật tử bốn phương, họ phải nhín ăn, bớt mặc để ta có thời gian mà tu học.
Ta chỉ chuyên làm một việc như vậy, mọi cái, mọi thứ đều có người khác lo, nên khi mới xuất gia, trước tiên ta phải cắt ái, lìa người thân, để sống đời giải thoát, thế mà ta không chịu, cứ lình xình, lẹp xẹp, để cho tháng ngày trôi qua suông.
Bây giờ, chúng ta hãy quán lại kỹ, coi thế gian này có gì là quan trọng để đáng cho ta luyến tiếc, đam mê, say đắm hay không? Người tu chúng ta phải lấy trí tuệ làm đầu, nhờ có trí tuệ, ta mới soi sáng được mọi vật mà biết rõ nguyên nhân, để ta không tham đắm, luyến tiếc, bị dòng đời cuốn trôi.
Thân này già mà ta bảo nó không già được không? Thân này bệnh ta bảo nó không bệnh được không? Thân này chết ta bảo nó không chết được không? Cái mà nó theo ta hằng ngày, ta còn không giữ được, huống hồ là những thứ khác.
Vậy mà ta vẫn sống với con mắt thứ hai hoài, ta phải can đảm như nhà vua mới được. Cầm nhánh cây đã bẽ gãy trên tay, vua hỏi người đẹp, “thiếp có thể làm dính cành cây với thân cây lại được không? Nếu không thì hai ta mỗi người có một con đường riêng, nàng hãy ở lại để tiếp tục con đường của nàng, ta phải đi để đến con đường của ta. Vì ta biết khi ta đến đó, ta vẫn ăn-uống-ngủ nghỉ-làm việc và phục vụ như bao người khác, nhưng ta có tâm trong sáng và định tĩnh, nhờ vậy ta hay soi sáng muôn loài vật mà không bị ai làm chướng ngại. Ta chấp nhận xa lìa người thân, dứt tình ân ái, để đi đến phương trời cao rộng mà không lúc nào bị con mắt thứ hai làm mê mờ”.
Ngày xưa, thiền sư Triệu Châu trong một lần về thăm bổn sư, vị thầy thế phát xuất gia; gia đình, người thân hay tin đến thăm đông đảo. Sư biết vậy liền nói, “lưới ái trần tục không có ngày thôi dứt, ta đã từ bỏ để sống đời cao thượng, nên không muốn gặp lại”. Nói xong, sư liền mang bát ra đi liền trong đêm đó.
Ta phải mạnh dạn và dứt khoát như vậy, mới có thể làm nên việc lớn mà cứu người, giúp thế gian. Sau nàu, thiền sư Triệu Châu nổi tiếng khắp thiên hạ và sống đến 120 tuổi, độ vô số người, không thể tính kể. Nhờ dứt khoát không chấp nhận để con mắt thứ hai làm lay động, nên thiền sư đã thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát một cách dễ dàng.
Thiền sư Hoàng Bá nói:
Vượt khỏi trần lao việc khó làm
Nắm chặt đầu dây giữ lập trường
Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương!
Ta muốn sống đời an lạc, hạnh phúc với lý tưởng cao thượng, ta phải dứt khoát lìa khỏi con mắt thứ hai, để vượt qua phong ba, bão táp của cuộc đời. Nhưng muốn được như vậy thì ta phải làm sao? Nắm chặt đầu dây giữ lập trường, ta phải cương quyết, mạnh dạn hơn, một đi không trở lại, hai đi không trở về, ba đi vì quyết chí, vượt thoát mọi trần lao, để ta và người cùng nhau thưởng thức hương thơm và mùi vị của hoa mai. Vậy có ai dám dứt khoát và can đảm bỏ con mắt thứ hai, để thưởng thức hương vị của hoa mai không?
NIỀM TIN TRONG KINH KAMALA
Đạo Phật là đạo của giác ngộ, giải thoát nên lúc nào cũng phát khởi tấm lòng vô ngã vị tha với tinh thần từ bi và trí huệ. Trong suốt 49 năm hoằng dương chánh pháp đức Phật đem hết sự thấy biết của mình qua sự tu chứng trải nghiệm thực tế, nhằm thức tỉnh và giác ngộ giúp cho mọi người có hiểu biết chân chánh bằng niềm tin nơi chính mình và tin sâu nhân quả.
Kinh Kamala được Phật nói trong hoàn cảnh khi Ngài cùng các đệ tử đi đến thị trấn Kê-sa-pu-ta của sắc dân Ka-la-ma thuộc nước Kô-sa-la. Người dân trong thị trấn này rất muốn tu tập để chuyển hoá những nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc. Nhưng họ không biết ai là đạo sư chân chính vì có quá nhiều thầy đến đây để tuyên truyền thuyết phục, ai cũng cho giáo pháp của mình là đúng chân lý. Chính vì có quá nhiều đạo sư, làm dân chúng trong thị trấn này cảm thấy phân vân, cảm thấy lo lắng vì không biết ai là đạo sư chân chính để quy hướng và ứng dụng hành trì.
Đức Phật do nhân duyên này, thay vì trả lời trực tiếp sự thắc mắc của người dân, bằng sự thông minh và trí tuệ của chính mình Ngài hỏi các người dân ấy như sau:
Này các người dân KAMALA giết hại có từ bi hay không? Trộm cướp có từ bi hay không? Uống rượu say sưa có từ bi hay không? Tất cả người dân đều trả lời: Dạ thưa không kính bạch đức thế tôn. Đức Phật dạy, việc phân vân nghi ngờ khi chưa hiểu rõ là điều tất yếu, hợp lý khi nghe nhiều lời tuyên truyền thuyết giảng. Và trong trường hợp đó, mọi người không nên vội tin quan điểm nào, và cũng không bác bỏ quan điểm nào, khi mà mọi người chưa tìm hiểu đạo ấy một cách thấu đáo và triệt để.
Đây là lời dạy chân chính và thiết thực làm cho người dân KAMALA phải suy nghĩ, nghiệm xét một cách rõ ràng tường tận. Vì có những Phật tử, chỉ đọc các câu “chớ vội tin” của Kinh Kamala, mà đã quy kết, đã khởi kiến chấp trong đầu, cho là quan điểm của mình đúng, quay lại bác bỏ, phỉ báng các học thuyết khác. Đây là một điều rất tai hại có thể dẫn đến nhiều sai lầm đáng tiếc.
Ở đây chúng ta thấy đức Phật rất đổi từ bi và rộng lượng, không bắt buộc một ai tin theo mình mà chỉ khuyên nhũ mọi người không nên vội tin và cũng không nên bác bỏ? Chỉ khi nào những lời dạy đó ta đem áp dụng vào trong đời sống hằng ngày, mà cảm nhận được lợi lạc thật sự cho chính mình thì ta mới hoàn toàn tin theo.
Đức Phật dạy: khi nghe một điều gì, các vị phải quán sát, suy tư và thể nghiệm, chỉ khi nào, sau khi kiểm nghiệm, quý vị thực sự nhận thấy: “Lời dạy này thiện lành tốt đẹp, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán. Nếu sống và thực hiện các lời dạy này sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc ngay trong hiện tại và về lâu, về dài thì lúc ấy quý vị hãy đặt niềm tin bất động và thực hành theo”.
Nếu khi học, khi đọc, khi nghe một học thuyết nào đó, điều quan trọng bậc nhất là chúng ta cần phải áp dụng thực hành. Khi chính mình thực hành và trải nghiệm theo giáo pháp đó, mình cảm thấy bình yên, hạnh phúc ngay trong hiện tại và về lâu về dài. Thì đó đúng là những lời dạy chân chính, chúng ta hãy nên có lòng tin tuyệt đối vào giáo pháp đó.
Trong thời gian gần đây, có một số người học Phật khởi lên tâm niệm chấp trước, thấy mình hay mình giỏi hơn người, ai theo tông chỉ Thiền thì phỉ báng Tịnh Độ, người theo Tịnh Độ thì chê bai Thiền, hoặc có nhiều luận thuyết bác bỏ lẫn nhau. Các quan điểm này đều sai lầm và cần phải loại trừ trong ngôi nhà Phật pháp.
Thật ra trong đạo Phật từ pháp phương tiện cho đến pháp cứu cánh, tất cả đều phải thiền và thiền có hai loại là thiền chỉ và thiền quán. Pháp nào chỉ dạy nương vào một chỗ gọi là thiền chỉ như niệm Phật, niệm hơi thở chẳng hạn. Còn dùng nhận thức để quán chiếu thân thọ tâm pháp cho đến ngoại cảnh bên ngoài đều gọi chung là thiền quán. Hai pháp này hổ tương cho nhau nhờ chỉ nên được định, do đó phải dùng quán để phát sinh trí tuệ mà buông xả phiền não tham sân si. Khi hai phương pháp này đã thuần thục rồi thì mỗi hành giả phải trở về trung đạo không dùng chỉ quán nữa mà thể nhập Phật tính ngay nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý. Phương tiện của mỗi pháp tu có khác, ai thích hợp với pháp nào thì pháp đó là số một.
Ví dụ như có người cảm thấy niệm Phật giúp cho họ an lạc, thì đó là chánh pháp đối với họ, ta không được chê bai, chỉ trích. Nhưng trì danh niệm Phật là phương tiện ban đầu muốn được nhất tâm bất loạn như trong kinh A di Đà nói thì chúng ta phải nhớ Phật tức phải buông xả câu niệm Phật để thể nhập tâm hằng biết của mình. Có người nhận thấy tu thiền giúp họ yên vui, hạnh phúc ta không nên phỉ báng họ, vì đó là gốc của đạo Phật. Thiền là nền tảng căn bản cho mỗi hành giả tu theo đạo Phật, không có thiền tức không phải đạo Phật quý Phật tử phải nên nhớ như vậy.
Ngày xưa Tôn giả A-nan trên đường đi giáo hoá cùng đức Phật, gặp hai người đệ tử phát tâm theo Ngài học Phật. Một người là thợ rèn Tôn giả chỉ pháp tu quán bất tịnh, một người giữ nghĩa địa, Tôn giả dạy pháp tu quán hơi thở. Hai ông tu hoài nhưng không tiến, vì không buông xả được phiền não nên mới than: Sao thầy dạy con tu không tiến chút nào hết! Nghe vậy Ngài liền hỏi Phật chỉ dạy.
Phật bảo: Tại ông dạy sai vì không phù hợp với căn cơ việc làm của họ chớ không phải tại họ tu sai. Ông phải dạy lại đi, người thợ rèn nên dạy quán hơi thở, vì họ thổi ống bễ phì phịch hoài, quán hơi thở sẽ nhịp nhàng với công việc, tu như thế mau tiến hơn. Người giữ nghĩa địa thường thấy xác chết, nên dạy họ quán bất tịnh thì sẽ có kết quả liền. Ngài nghe lời dạy của Thế Tôn, đem dạy lại hai vị đệ tử của mình. Quả nhiên, chẳng bao lâu cả hai tu đều có kết quả tốt đẹp nên họ càng có niềm tin vững chắc với Phật pháp hơn.
Qua câu chuyện trên, cả hai pháp quán bất tịnh và quán hơi thở đều do Phật dạy. Nhưng đối với người thợ rèn, thì quán bất tịnh không phù hợp với căn cơ việc làm của họ hiện tại, nên dù có cố gắng tu cũng không đem lại an lạc. Đối với người canh nghĩa địa, thường xuyên tiếp xúc với nhiều xác chết nếu chỉ dạy quán hơi thở cũng không thích hợp, vì khi thực hành, người đó bị loạn tâm.
Trở lại Kinh Kamala, đức Phật có nói những dấu hiệu của sự hạnh phúc, đó là khi lòng tham, lòng sân, lòng si, lòng hung hăng… đã được vứt khỏi nội tâm con người, thì con người sẽ được hạnh phúc. Vì khi họ không còn lòng tham, lòng sân, lòng si, lòng hung hăng chi phối, chinh phục, họ sẽ không khởi lên ý nghĩ hay hành động bức hại sinh linh, lấy của không cho, quan hệ tình cảm bất chính, nói láo, uống rượu, cũng như họ không còn khích lệ người khác làm những điều xấu ác trên. Như Lai tuyên bố sự xa rời ấy giúp cho con người sống hạnh phúc và an lạc về lâu về dài.
Như vậy, pháp môn nào hướng bản thân của chính mình đến bình yên hạnh phúc, thì đó là chánh pháp cho mình. Nhưng pháp môn đó chưa hẳn đã là chánh pháp cho người khác. Vì thế việc thận trọng trong quá trình giảng dạy và truyền dạy pháp cần phải được phù hợp với căn cơ của mọi người. Người dạy pháp trước tiên tâm phải định tĩnh, yên vui, và tỉnh thức, rõ biết được tâm lý của người khác thì mới được giảng pháp. Nếu không rõ được điều này, thì việc mình tự tu, mình tự chứng, dùng mình làm trung tâm quán sát sự yên vui, sự hạnh phúc trong nội tâm là điều tối cần thiết. Không nên xem xét lỗi người mà tự làm tổn hại tâm mình.
Tóm lại, khi nghe ai nói hay truyền đạt một điều gì ta phải biết cân nhắc, xem xét, chỉ khi nào quý vị suy tư, chiêm nghiệm và nhận thức xác đáng điều gì là chân chính, lợi ích cho mình và người khác rồi hãy đem lòng tin tưởng và làm theo. Đó là tiêu chuẩn của đức tin chân chánh, chúng ta nên học hỏi và bắt chước làm theo.
Dựa trên nền tảng chung của Kinh Nền Tảng Đức Tin, nay chúng ta cùng tìm hiểu mười niềm tin chơn chánh mà đức Phật chỉ dạy:
1. Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
Truyền thuyết là những câu chuyện bắt đầu từ sự thật lịch sử hoặc hư cấu, được thêm thắt hoặc bớt đi, và được truyền tụng từ người này qua người khác, từ đời này qua đời khác, rồi lại được dân chúng chấp nhận như là những chuyện lịch sử.
Truyền thuyết là những câu chuyện được truyền tụng trong dân gian, nhưng không thể kiểm chứng được, tựa như các chuyện hoang đường, được dân chúng kể đi kể lại nhiều lần trong nhiều đời, hoặc được thêm thắt, thần thánh hóa, để trở thành nhân vật lịch sử có thật. Đó là những người hùng và những danh nhân, danh tướng trong lịch sử.
Truyền thuyết cũng là một bộ phận của văn học dân gian. Truyền thuyết thường được gắn bó với con người nhiều hơn, bởi sự truyền miệng qua nhiều người. Truyền thuyết cũng cung cấp cho chúng ta một vốn kiến thức kha khá về các địa danh lịch sử ở Việt Nam.
Nói tóm lại, truyền thuyết là những câu chuyện nửa thật nửa giả, do người đời thêu dệt và dựng lên. Có thể truyền thuyết dựa trên một sự kiện có thật, hoặc không có thật, và được người đời sau thêm vào để tăng thêm tính hấp dẫn, thần thánh hóa cho câu chuyện trở nên sống động. Đặc biệt ý nghĩa là có truyện kể cho bạn bè, người thân, con cái, những người chưa biết. Có thể nói rằng, mỗi một địa danh, mỗĩ vùng đất ở Việt Nam đều gắn với một truyền thuyết nào đó, bởi vậy có vô số truyền thuyết chúng ta biết và chưa biết.
Ví dụ như truyền thuyết Sơn Tinh và Thủy Tinh, đây là một truyền thuyết hư cấu về hai vị thần núi và thần biển, nói lên sự phấn đấu tích cực của con người đối với thiên nhiên. Mặc dù trong chuyện nói hai vị thần núi và biển cùng nhau cầu hôn công chúa Mỵ Nương của vua Hùng Vương đời thứ 18 làm vợ. Nhưng truyền thuyết này dựa vào những dữ kiện lịch sử. Từ ngàn xưa cho đến nay hằng năm thường xuyên xãy ra thiên tai lũ lụt, làm ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình và xã hội. Vua quan và dân chúng phải nỗ lực thực hiện công việc đào kinh đắp đê ngăn đập, nhằm đảm bảo đời sống cho nhân dân.
Như trong truyện Sơn Tinh và Thủy Tinh, cả 2 vị thần đều là hư cấu, nếu ta không hiểu sẽ tin rằng có hai vị thần thiệt và đầy quyền năng thì ta sẽ rơi vào mê tín, vì tin mà ta không biết rõ nguồn gốc của nó.
Thần biển là tượng trưng cho giông gió bão tố lũ lụt làm thiệt hại đến đời sống con người. Thần núi là tượng trưng cho người dân, siêng năng, cần cù, thông minh tìm cách chống lại thiên tai, hoạn nạn. Hình ảnh này nói lên tinh thần chịu khó, chịu khổ của con người để khắc phục tai hoạ do thiên nhiên gây ra.
Đức Phật không bao giờ bác bỏ các truyền thuyết, ngược lại đức Phật còn khuyên chúng ta hãy nên tìm hiểu nó cho kỹ càng thấu đáo, để biết được giá trị thật của nó.
2. Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
Truyền thống là những tập tục lâu đời do xã hội hình thành, nó trở thành nếp sống, nếp văn hóa cho mỗi cộng đồng xã hội đặc thù. Như truyền thống tốt đẹp của người Phật tử Việt Nam là uống nước nhớ nguồn. Tinh thần này hợp với đạo thờ cha kính mẹ của dân tộc Việt Nam. Truyền thống tốt đẹp này luôn nhắc nhỡ cho mỗi người chúng ta biết được đạo lý làm người trước tiên là phải biết ơn và đền ơn.
Chim có tổ, người có tông đạo hiếu luôn đi đôi với nhân nghĩa, đạo đức và làm người ai cũng phải biết như thế. Một con người công thành danh toại đều xuất phát từ sự cung kính hiếu thảo với ông bà cha mẹ mà ra. Người bất hiếu đa số rơi vào vòng tệ nạn xã hội vì cha mẹ của mình có công sinh thành dưỡng dục nuôi nấng bảo bọc, che chở mà ta còn không biết ơn thử hỏi sao người khác ta đối đãi tốt cho được.
Truyền thống cúng sao giải hạn, giết vật cúng tế quỹ thần, xin xăm bói quẻ đều là những truyền thống làm cho con người ta thêm hoang mang sợ hãi nên phải cầu khẩn van xin để được tai qua nạn khỏi. Tất cả những thứ này đều là truyền thống, nhưng có những truyền thống giúp cho ta tốt thêm và có những truyền thống làm cho ta mê tín và sợ hãi nhiều hơn.
Đức Phật của chúng ta rất tế nhị hoàn toàn không bác bỏ truyền thống. Do đó đức Phật dạy chúng ta rằng, không nên vội tin một điều gì và cũng không nên bác bỏ một điều gì khi chưa thẩm sát. Như những truyền thống giết heo bò, gà, vịt để cúng tế ngày tết, ngày giỗ, bản thân nó tạo ra nghiệp sát sanh, nghiệp lãng phí cho mỗi gia đình và người thân. Những ai thực hành những truyền thống này thì thân tâm của họ cảm thấy bất an, vì nghiệp sát sinh hại vật và làm lãng phí tiền của, càng ngày thêm tăng trưởng nghiệp tham sân si gây ra ân oán thù hằn không có ngày thôi dứt. Những người tin theo các truyền thống này, thì dần hồi sẽ bị lạc vào chỗ tối tăm mê muội mà không có ngày thôi dứt.
Nhưng bên cạnh đó, có những truyền thống rất tốt đẹp, như truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây, hiếu thuận ông bà cha mẹ, cung kính tôn trọng người tu hành chân chính, biết ơn thầy cô giáo, nhớ ơn người giúp đỡ mình. Truyền thống nhớ ơn, biết ơn, đền ơn là một truyền thống tốt đẹp luôn giúp cho mọi người sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết.
Truyền thống hiếu thuận cha mẹ, điển hình là ngày lễ Vu Lan trong mùa an cư kiết hạ của chư Tăng ni. Trong ba tháng mùa an cư kiết hạ của chư Tăng ni lượng mua bán thịt cá ở các chợ giảm gần 50%, rõ ràng đây là một truyền thống tốt đẹp giúp cho mọi người thể hiện được lòng từ bi với các loài vật. Hoặc kỹ niệm ngày của cha, ngày của mẹ bên phương Tây, giúp cho chính bản thân mình cảm thấy nhẹ nhàng, yên vui vì đã góp phần làm tròn bổn phận con đối cha mẹ. Tâm hiếu là tâm Phật, đạo hiếu của một người con đối với mẹ người đã mang nặng đẻ đau sinh thành, cha làm lụng vất vả nhọc nhằn để nuôi dưỡng con khôn lớn trưởng thành. Một người con hiếu thảo biết tôn trọng cung kính ông bà cha mẹ, biết đền ơn đáp nghĩa với thâm ân sâu dày và cao cả, còn thương yêu đùm bọc giúp đỡ mọi người và biết giữ niềm tin chân chính đối với người khác.
Truyền thống tôn sư trọng đạo đối với các bậc sư trưởng, khiến mình biết quý trọng tôn kính những người đã có công dạy dỗ mình nên người, thành tài, sống có nhân cách và phẩm chất đạo đức tốt. Chính nó là động lực thúc đẩy làm cho những lớp trẻ đi sau noi gương mình mà nhờ đó cũng được thành tài, hiền thiện mà làm tròn bổn phận đối với gia đình, xã hội và sống tốt trong hiện tại và mai sau.
Do đó, những truyền thống nào làm cho ta mê tín hay làm tổn hại cho người và vật, thì ta không nên tin, còn truyền thống nào tốt đẹp giúp cho mọi người vui vẻ thuận thảo hoà hợp với nhau thì chúng ta cần phải nên giữ gìn và hướng dẫn cho gia đình người thân cùng được biết và bắt chước làm theo.
3. Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
Tuyên truyền là một hoạt động làm lớn mạnh, làm rộng những hướng dẫn, những lời giảng dạy của người khác. Tuyên truyền có 2 dạng, phục vụ cho lợi ích cá nhân và phục vụ cho lợi ích cộng đồng.
Chúng ta thường nhắc đến hai từ tuyên truyền, muốn cho việc tuyên truyền có kết quả tốt đẹp thì ta phải biết cách vận dụng có nghệ thuật làm xúc động lòng người. Như các cơ quan ban ngành đoàn thể thường tuyên truyền kêu gọi các nhà hảo tâm, những tấm lòng vàng, quý Phật tử gần xa giúp đỡ người bất hạnh già cả bệnh tật, neo đơn, trẻ mồ côi thường được nhiều người ủng hộ làm cho nhân loại ngày càng thêm yêu thương gắn bó với nhau bằng tình người trong cuộc sống.
Đức Phật của chúng ta hoàn toàn không bác bỏ những lời tuyên truyền, vì chính giáo pháp của Ngài nhờ các vị Tổ hoạt động tuyên truyền nên ngày nay mới được thêm lớn mạnh mà nhiều người biết đến để áp dụng tu tập và chuyển hoá nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc. Tuy nhiên, đức Phật vẫn cảnh báo chớ vội tin. Vì sao? Nếu việc tuyên truyền phục vụ cho mục đích cá nhân, mang yếu tố và tính chất tiêu cực, làm tổn hại đến nhiều người khác như tuyên truyền tận thế trong thời gian vừa qua làm ảnh hưởng đến một số người, gây mang mang sợ hãi lo lắng để cho một số người lợi dụng làm điều xấu ác.
Trái lại, có những tuyên truyền mang ý nghĩa nhân văn, đem lại lợi ích cho cộng đồng, như tuyên truyền thực hành tiết kiệm, tuyên truyền nâng cao ý thức giao thông, hay tuyên truyền giáo pháp đức Phật giúp cho mọi người cùng học hỏi, tham khảo rồi thực hành để buông xả những tâm niệm tham lam ích kỹ, sân giận, si mê, ganh ghét tật đố làm cho mình và người khổ đau. Những tuyên truyền này luôn giúp cho mọi người tránh được những tai nạn đáng tiếc trong cuộc đời, giúp cho nhân loại biết cách bỏ ác làm lành mà cùng sống yêu thương giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết.
4. Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở.
Kinh điển, sách vở là những tài liệu ghi chép lại những lời dạy của người xưa, nhằm hướng đến một mục đích nào đó. Ví dụ như sách lịch sử, sách y học… dạy cho con người hiểu được lịch sử truyền thống con người và đất nước Việt Nam phát xuất từ đâu do ai sáng lập nên, sách y học dạy cho con người hiểu được cách ngừa bệnh và trị bệnh cho con người. Các loại kinh của Phật dạy giúp cho con người sống tốt hơn nhờ biết tránh xa điều xấu mà hay làm các việc thiện lành tốt đẹp trên nền tảng của nhân quả.
Do đó, dạy cho con người phát triển lòng từ bi rộng lớn, nên Phật dạy không được sát sinh hại vật, trộm cướp lường gạt của người. Tóm lại, Phật khuyên nhủ mọi người không nên làm điều gì làm tổn hại cho người và vật. Muốn vậy con người cần phải giác ngộ, tỉnh thức và nhận thức đúng đắn về nguyên lý thành trụ hoại không của vạn vật, nguyên lý sinh già bệnh chết của con người. Và điều trước tiên Phật dạy chúng ta muốn sống tốt và đạo đức thì phải biết cung kính hiếu thảo với ông bà cha mẹ, vui vẻ thuận thảo với anh chị em, hoà hợp bà con cô bác láng giềng bằng cách yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trong tình cảm sâu sắc của nhân loại.
Tóm lại, kinh điển và sách vở có 2 loại: Kinh sách chân chính và kinh sách không chân chính. Kinh sách chơn chánh là những kinh sách giúp cho con người phát triển tư duy, kiến thức, hiểu biết trí tuệ, nhằm đem lại lợi ích vật chất và tinh thần cho con người, giúp nhân sinh nhận thức đúng đắn và hiểu biết rõ ràng về nguyên lý nhân duyên quả trong thân tâm mình và thế giới bên ngoài.
Kinh sách không chơn chánh là những tài liệu dạy con người phát triển tham sân si, mê hoặc, khổ não trói buộc nơi tâm trí. Thí dụ như sách viết về quan hệ tình duc, truyện dâm, truyện sét, tiểu thuyết tình ái. Người học theo những sách vở này, chỉ khởi tâm dâm dục và ham muốn hành dâm. Nó làm cho người đó tâm tư không được thanh tịnh và trong sáng nên dễ bị kích động làm chuyện bậy bạ làm ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống xã hội.
Đức Phật luôn khích lệ và ủng hộ những kinh sách chơn chánh và hay khuyên nhũ mọi người cần nên tránh xa những kinh sách làm ảnh hưởng xấu xa và tổn hại đến thân tâm con người.
5. Năm là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình.
Lý luận siêu hình là những lý luận bằng suy nghĩ, tư duy nghiệm xét mới có thể lý giải hiểu rõ bản chất của nó do đó mà không thể cảm nhận bằng trực giác, giác quan của chính mình.
Lý luận siêu hình có hai loại: lý luận thực tế và lý luận không thực tế.
Lý luận thực tế là các lý luận giải thích cụ thể, rõ ràng đúng bản chất theo tinh thần khoa học của thế giới tự nhiên muôn loài vật, và thực tế nhất là con người đang sống trong đời sống xã hội hiện nay. Ví dụ, như lý luận về nguyên tử là lý luận siêu hình vượt qua sự thấy nghe và cảm nhận của con người. Nhưng các nhà khoa học đang nghiên cứu hàng loạt các thí nghiệm mới thấy được các dấu hiệu và bản chất sự thật của nó. Đó là lý luận siêu hình trên hình thể vật chất mà mắt con người khó nhìn thấy được.
Lý luận về tâm thức của một con người hay còn gọi là con người tâm linh mà đức Phật thường nói trong các bản kinh là lý luận siêu hình. Muốn biết rõ được bản chất thật sự của nó, chúng ta cần phải thực hành trải nghiệm mới thấu rõ được cội nguồn của nó là trong sạch, tinh khiết lặng lẽ nhưng hay chiếu soi muôn loài vật. Đó là Phật tính sáng suốt của mọi người nhưng ít ai quay nhìn lại để nhận ra chân lý ấy nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế.
Lý luận không thực tế là các lý luận không có căn cứ khoa học, không có căn cứ vào bản chất thật sự của con người trong cuộc sống hiện tại. Ví dụ, các lý luận về đấng tối cao sinh ra vũ trụ quyết định sự sống chết và vận mệnh của muôn loài vật, cụ thể nhất là của con người. Không ai thấy rõ hay sẽ thấy về các truyền thuyết này, nó chỉ nằm trong tín ngưỡng dân gian được truyền tụng nhiều đời và cũng không ai thấy được đấng tối cao quyết định vận mệnh của con người và nó hoàn toàn không có căn cứ thực tế cụ thể rõ ràng.
Còn lý luận đạo Phật về con người tâm linh của chính mình được các nhà khoa học kiểm chứng và xác minh rõ ràng bằng con người có thật của các Thiền sư khi ra đi để lại rất nhiều nhục thân trên cả ngàn năm mà không cần các kỹ thuật ướp xác vẫn giữ nguyên hình thể với tư thế ngồi hoa sen không bị mục nát.
Cụ thể nhất là ở miền Bắc nước Việt Nam chúng ta hiện nay có bốn nhục thân đang được thờ tại các chùa Đậu, chùa Phật Tích, chùa Tiêu và có rất nhiều nhục thân khác ở các nước tu theo Phật giáo. Quý vị muốn biết chính xác hãy liên hệ với các ban ngành lãnh đạo Phật giáo thì sẽ biết rõ hơn.
Đức Phật của chúng ta luôn luôn ủng hộ những lý luận giúp cho con người hiểu biết tự nhiên, xã hội, hiểu biết thân tâm thanh tịnh củả tất cả chúng sinh và cụ thể nhất là con người. Ngược lại, Ngài khuyên chúng ta hãy nên tránh xa những lý luận vô căn cứ và luôn làm cho nhiều người mê tín và dấy khởi lên những tâm niệm tham lam ích kỹ, sân hận nóng giận hờn mát và si mê đố kỵ để làm tổn hại cho nhau.
6. Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.
Lập trường là những quan điểm, hệ thống tư duy của một người hoặc của một nhóm người nào đó về các vấn đề trong cuộc sống. Lập trường được hình thành từ những kiến thức, hiểu biết, được học hỏi qua lại từ các trường lớp hoặc được học hỏi từ các tôn giáo mà người đó đã được giáo dục, học tập trong suốt một quá trình lâu dài.
Có những lập trường phù hợp với đời sống con người và giúp cho con người ngày càng sống tốt hơn về mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần.
Có những lập trường không phù hợp với đời sống con người khi làm theo sẽ bị tổn hại về lâu về dài. Tùy thuộc vào thói quen và khả năng nhận thức của mỗi người mà chúng ta có những lập trường và quan điểm khác nhau. Như người mới học lớp 1 có suy nghĩ lập trường về cuộc sống còn rất giới hạn và hoàn toàn khác với một sinh viên đại học chuyên ngành đã ra trường và đang làm việc.
Nếu lập trường nào đó không làm cho con người bị vẫn đục bởi phiền não tham sân si, nghĩa là người đó suy nghĩ, nói năng và hành động luôn làm lợi ích cho nhiều người mà tỉnh thức, thân tâm thư thái, an lạc, nhẹ nhàng, thì đó là lập trường chơn chính. Lập trường này giúp cho người khác sống ngày càng tốt hơn trên nền tảng của nhân quả chúng ta hãy nên khuyên khích người khác tin tưởng và tu học theo.
Lập trường nào dựa vào tranh cãi, bác bỏ, chê bai, chứng tỏ đẳng cấp chính mình, bằng những hiểu biết nhận thức không đúng đắn do đó bị tham ái, giận sân, si mê, chi phối thì đó là những lập trường không có ích cho người nói, người nghe, và làm ảnh hưởng xấu đến quá trình tu học của những người tu theo đạo Phật. Một số người nói kinh điển nguyên thuỷ là giáo lý tiểu thừa, kinh điển đại thừa hư dối là do ngoại đạo nguỵ tạo, ai có những nhận định và lập trường như thế là chưa phải là người học Phật chân chính thì thử hỏi làm sao đủ tư cách hướng dẫn cho mọi người khác học và tu theo.
Người có lập trường vững chắc là người đã xác định rõ ràng mục tiêu mình đang theo đuổi và quyết chí ứng dụng thực hành để đạt được kết quả tốt đẹp trong hiện tại và mai sau. Như lập trường của người Phật tử, sau khi tìm hiểu những lời dạy chân chính của đức Phật thông qua sự quán chiếu soi sáng lại chính mình cho nên ngày càng cảm nhận được bình yên hạnh phúc. Biết được sự tác hại của sát sinh hại vật, trộm cướp lường gạt, nói dốc láo để hại người và dùng rượu xì ke ma tuý và các chất kích thích độc hại khác làm cho mình và người khổ đau. Và mục đích cuối cùng là được giác ngộ, giải thoát, nhưng không tự mình hưởng an nhàn mà phát tâm đi vào đời vì lợi ích chúng sinh với tinh thần vô ngã vị tha.
Nhiều người không biết phê phán, chỉ trích nói sống như vậy là ngu không giúp được gì cho gia đình người thân. Họ tìm cách ngăn cản, đả phá làm cho ta lay động bất an mà không giữ vững lập trường nên một số người vì không quyết chí và tin tưởng con đường của mình đang đi nên đành bỏ cuộc nửa chừng. Người Cách mạng sở dĩ họ thành công là nhờ vào lập trường vững chắc. Còn chúng ta là người Phật tử chân chính, trên cầu thành Phật dưới cứu độ tất cả chúng sinh vừa làm lợi ích cho mình vừa giúp đỡ người khác bằng tình người trong cuộc sống với trái tim yêu thương và hiểu biết. Bởi đây là lý tưởng cao cả của những con người có tấm lòng bao la rộng lớn vì tất cả chúng sinh trên thế gian này.
7. Chớ vội tin một điều gì, khi mà điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.
Những dữ kiện hời hợt là những thông tin không đủ căn cứ chuẩn xác, không đủ tính chơn thực và không có một hệ thống tư duy, nghiên cứu thể nghiệm rõ ràng.
Đức Phật không hoàn toàn bác bỏ các căn cứ dựa trên những dữ kiện hời hợt, nhưng Ngài vẫn khuyên chúng ta khi nghe điều gì phải biết tìm hiểu, chiêm nghiệm nó rồi mới tin khi thấy được lợi ích thật sự.
Những dữ kiện hời hợt đôi khi không phải là sai, mà chẳng qua nó không đủ tính chuẩn xác, tính khoa học, nên có thể làm cho người tiếp nhận những thông tin đó không biết rõ nguyên nhân nguồn gốc của chúng. Chính cái, không rõ, không biết nguồn gốc đó sẽ làm cho nhiều người hoang mang và nghi ngờ nên làm cho họ khởi lên những tâm niệm không tin tưởng. Nên khi viết, và đặt vấn đề chúng ta cần phải chú ý đến các dữ kiện của mình, trích dẫn nguồn gốc cụ thể, thì người viết và người đọc sẽ được lợi ích thật sự.
8. Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.
Định kiến là những quan điểm cố định, không thay đổi của một con người về một sự vật, hoặc cụ thể vào một hiện tượng nào đó. Ví dụ như một số người cho rằng chết là hết cát bụi trả về cát bụi, một số người cho rằng tất cả mọi hiện tượng sự vật xãy ra điều là ngẫu nhiên, đương nhiên khi không, một số người cho rằng có một ông trời ban phước giáng hoạ tạo ra tất cả muôn loài vật trong bầu vũ trụ bao la này .v..v..
Có những định kiến có thể diễn tả đúng bản chất của thế giới và con người, có những định kiến do học hỏi và thói quen của con người nó chỉ là những quan điểm phiến diện và sự bảo thủ, cố chấp của con người.
Định kiến thứ nhất cho rằng có một đấng thần linh thượng đế ban phước giáng hoạ, ai sinh ra như thế nào thì trước sau như một không thể thay đổi được như trời chết sinh trời, người chết sinh người, thú vật chết sinh thú vật và còn tuỳ thuộc theo đẳng giàu nghèo, sang hèn. Định kiến này sẽ làm cho con người mất tự chủ, sống phải lệ thuộc vào đấng bề trên mà mình không biết cho nên rơi vào mê tín, tà vạy.
Định kiến thứ hai cho rằng chết là hết không có nhân quả nghiệp báo tội phước nên mặc tình hưởng thụ đến khi phước hết thì chịu hoạ si mê. Hai định kiến này đối lập nhau đều rơi vào hai trạng thái có và không. Có một ông trời ban phước giáng hoạ và không có gì hết sau khi thân này hoại diệt.
Đức Phật không hoàn toàn bác bỏ các định kiến của thế gian. Đối với những định kiến cho rằng có-không, đúng-sai, tốt-xấu và tất cả những định kiến nào dựa trên nền tảng tham sân si, làm tổn hại cho người và vật thì Ngài khuyên chúng ta nên tìm cách xa lìa, vì nó không lợi ích và không tốt cho ta trong suốt quá trình tu tập để chuyển hoá những nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc.
Và các định kiến nào dựa trên nền tảng nhân quả, làm chủ bản thân mọi việc tốt xấu nên hư thành bại trong cuộc đời đều do mình tạo lấy, lại còn hay san sẻ giúp đỡ mọi người trên tinh thần thương yêu bằng trái tim hiểu biết. Định kiến là cái thấy cố định tuỳ theo sự huân tập của mọi người cho nên không ai giống ai, chúng ta là con người phải biết khôn ngoan sáng suốt chọn lựa. Muốn vậy ta cần phải học hỏi, tìm tòi, nghiệm xét, dùng trí tuệ soi sáng để biết được bản chất thực hư của nó. Định kiến nào giúp ta làm chủ bản thân và hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi hành vi tốt xấu của chính mình thì ta hoàn toàn tin theo và áp dụng hành trì để mình và người được an lạc hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
9. Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.
Sức mạnh và quyền uy thế lực thường đi đôi với nhau. Người có thế lực luôn dùng uy tín của mình bằng địa vị cao trong xã hội nhân danh một cá nhân hay một tổ chức tập thể nào đó. Họ nhờ có địa vị cao nên được bảo trợ bằng vũ lực để khống chế các đối tượng khác. Hoặc một băng nhóm đảng phái nào dùng sức mạnh để thị uy với thiên hạ.
Như các ông vua thời phong kiến dùng địa vị của mình để bắt buộc các người khác phải tuân theo, vua bảo tôi thần chết là phải chết, không chết là bất trung. Vua muốn phong quan tiến chức cho ai thì phong, muốn giết ai thì giết. Ai sống thuận theo vua và làm lợi ích và bảo vệ cho nhà vua thì được hưởng vinh hoa phú quý suốt đời.
Như nhà nước đảm bảo mọi công dân có quyền đi học và làm việc để nuôi sống bản thân và gia đình đóng góp lợi ích cho xã hội. Ngược lại, nhà nước nghiêm cấm việc giết người, cướp của trộm cắp lường gạt của người khác…
Đức Phật không bao giờ bác bỏ những loại ủng hộ này vì nhờ có luật pháp và kỹ cương phép nước, con người mới cố gắng sống tốt với nhau. Và thay vào đó, đức Phật hướng dẫn cho tất cả mọi người biết cách lựa chọn những thông tin đúng, hợp pháp phù hợp cho quá trình tu tập và chuyển hoá các phiền muộn khổ đau.
Những sự ủng hộ dựa vào lợi ích cá nhân, trên nền tảng tham lam ích kỹ và sân giận, si mê, thì ta không nên đặt niềm tin để làm tổn hại người và vật. Như quan niệm từ nghìn xưa cho đến nay cái đúng thuộc về kẻ chiến thắng nhờ có sức mạnh và uy quyền. Đây là quan niệm dựa trên nền tảng chấp ngã của cái tôi, là tôi và của tôi nên lúc nào cũng sân hận và si mê, nó nhằm phục vụ cho những người chiến thắng vì thế lực mạnh.
Quan niệm người giàu có quyền vui chơi hưởng thụ, bóc lột người nghèo khổ phải phục vụ cho riêng mình, là dựa trên nền tảng tham lam, ích kỹ, bỏn sẻn phục vụ cho tầng lớp người có nhiều tài sản và quyền lực.
Tuy nhiên, những sự ủng hộ dựa vào lợi ích cộng đồng xã hội, phục vụ vì quyền lợi chung cho nhiều người không bị tham sân si chi phối, thì chúng ta cần được đề cao và duy trì. Chẳng hạn như quyền đi học của tất cả mọi công dân được nhà nước khích lệ và ủng hộ, đây là một dấu hiệu tốt cho xã hội đang trên đà phát triển, giúp con người tiếp thu tri thức hiểu biết. Trên thực tế những lời dạy của đức Phật đã được rất nhiều người trên thế giới này ủng hộ, vì nó giúp cho con người sống yêu thương đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã vị tha nhờ quyền bình đẳng trong cuộc sống.
Con người ngày nay văn minh tiến bộ vượt bực nhờ biết học hỏi và nghiệm xét, nên thấy rõ chỉ có đạo Phật mới là đạo của con người, vì con người sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết và sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ niềm đau. Nhưng vì nó đi ngược lại lòng tham lam, ích kỹ của con người nên số đông khó thâm nhập, bởi tính tự giác bằng sự ý thức của mỗi người.
10. Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.
Như chúng ta đã biết, những lời dạy vàng ngọc của đức Phật là các phương pháp giúp cho mọi người đạt được sự tỉnh thức khi thực hành và làm cho thân tâm mình được vui vẻ lạc quan yêu đời và bình yên hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Các nhà truyền giáo hay đạo sư là những người thuyết pháp, nói chuyện chia sẻ với chúng ta dù là lời Phật dạy, đức Phật vẫn khuyên chúng ta chớ vội tin mà khi nghe thì chúng ta phải biết suy xét, chiêm nghiệm và khi thực hành cảm thấy được an lạc, lợi ích cho chính mình và người khác thì khi đó ta mới tin.
Tin như vậy là người có hiểu biết chân chính bằng sự trải nghiệm trong thực tế không phải tin suông, tin càn, tin bướng. Việc tin tưởng mù quáng, không có căn cứ sẽ làm phát khởi phiền não tham sân si để làm hại mình và người. Do đó, đức Phật dạy chúng ta chớ vội tin một điều gì khi chưa có sự nghiệm xét và kiểm chứng rõ ràng.
Tuy nhiên, đức Phật không bác bỏ các điều được các nhà truyền giáo hay các đạo sư khác tuyên thuyết. Đức Phật chỉ dạy mỗi người nên tiếp nhận chúng bằng sự nhận thức đúng đắn và được soi sáng bằng trí tuệ. Nếu khi tiếp nhận, thực hành theo, thấy tâm mình không dấy khởi tham lam, sân giận và si mê, giúp ta tỉnh thức, thì những lời đó nên tin. Nếu khi tiếp nhận, thực hành theo, thấy mình phiền não, tham sân si dẫy đầy thì chúng ta nên từ bỏ những lời dạy đó vì không thật sự có lợi ích cho mình và người.
Qua đó, chúng ta có thể rút ra kết luận: Mục đích của việc học Phật là không phải dùng kiến thức của mình biết được để tranh đấu hơn thua với nhau, nhằm chứng tỏ khả năng hiểu biết. Mục đích của việc học Phật là điều phục và chuyển hoá tâm mình, làm sao cho nó được định tĩnh, không bị tán loạn bởi các cảnh duyên bên ngoài.
Việc tu học Phật là một quá trình nỗ lực thực hành lâu dài cần phải có sự kiên trì, bền chí, nhẫn nại, không cạnh tranh hơn thua, không dò tìm lỗi người khác, thường xuyên tu sửa chính mình. Chúng ta chỉ chuyên chú học hỏi, chiêm nghiệm tu tập làm sao cho thân tâm, được an ổn nhẹ nhàng biết rõ ràng từ ý nghĩ, cho đến lời nói và mọi hành động của mình một cách chính xác.
Thích Đạt Ma Phổ Giác
* * *
rat y nghia